Hạch toán chuyên sâu tài khoản 512- Doanh thu bán hàng nội bộ



TÀI KHOẢN 512 - DOANH THU BÁN HÀNG NỘI BỘ

Tài khoản này dùng để phản ánh doanh thu của số sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ tiêu thụ trong nội bộ các doanh nghiệp. Doanh thu tiêu thụ nội bộ là lợi ích kinh tế thu được từ việc bán hàng hoá, sản phẩm, cung cấp dịch vụ nội bộ giữa các đơn vị trực thuộc hạch toán phụ thuộc trong cùng một công ty, Tổng công ty tính theo giá nội bộ.

HẠCH TOÁN TÀI KHOẢN NÀY CẦN TÔN TRỌNG MỘT SỐ QUY ĐỊNH SAU

1. Kế toán doanh thu nội bộ được thực hiện như quy định đối với doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ (Tài khoản 511).

2. Tài khoản này chỉ sử dụng cho các đơn vị có bán hàng nội bộ giữa các đơn vị trong một công ty hay một Tổng công ty, nhằm phản ánh số doanh thu bán hàng nội bộ trong một kỳ kế toán của khối lượng sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ tiêu thụ nội bộ giữa các đơn vị trong cùng một công ty, Tổng công ty.

3. Không hạch toán vào tài khoản này các khoản doanh thu bán sản phẩm, hàng hoá và cung cấp dịch vụ cho các đơn vị không trực thuộc công ty, Tổng công ty; cho công ty con, cho công ty mẹ trong cùng một tập đoàn.

4. Doanh thu tiêu thụ nội bộ là cơ sở để xác định kết quả kinh doanh nội bộ của công ty, Tổng công ty và các đơn vị trực thuộc hạch toán phụ thuộc.

Kết quả kinh doanh của công ty, Tổng công ty bao gồm kết quả phần bán nội bộ và bán hàng ra bên ngoài. Tổng công ty, công ty và các đơn vị trực thuộc hạch toán phụ thuộc phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước theo các luật thuế quy định trên khối lượng sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ tiêu thụ ra bên ngoài và tiêu thụ nội bộ.

5. Tài khoản 512 phải được hạch toán chi tiết doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ nội bộ cho từng đơn vị trực thuộc hạch toán phụ thuộc trong công ty hoặc tổng công ty để lấy số liệu lập báo cáo tài chính hợp nhất.

KẾT CẤU VÀ NỘI DUNG PHẢN ÁNH CỦA TÀI KHOẢN 512 - DOANH THU BÁN HÀNG NỘI BỘ

Bên Nợ:

- Trị giá hàng bán bị trả lại, khoản giảm giá hàng bán đã chấp nhận trên khối lượng sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ đã bán nội bộ kết chuyển cuối kỳ kế toán;

- Số thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp của số sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ đã bán nội bộ;

- Số thuế GTGT phải nộp theo phương pháp trực tiếp của số sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ tiêu thụ nội bộ;

- Kết chuyển doanh thu bán hàng nội bộ thuần sang Tài khoản 911 - “Xác định kết quả kinh doanh”.

Bên Có:

Tổng số doanh thu bán hàng nội bộ của đơn vị thực hiện trong kỳ kế toán.

Tài khoản 512 không có số dư cuối kỳ.

Tài khoản 512 - Doanh thu bán hàng nội bộ, có 3 tài khoản cấp 2:

- Tài khoản 5121 - Doanh thu bán hàng hoá: Phản ánh doanh thu của khối lượng hàng hoá đã được xác định là đã bán nội bộ trong kỳ kế toán.

Tài khoản này chủ yếu dùng cho các doanh nghiệp thương mại như: Doanh nghiệp cung ứng vật tư, lương thực,. . .

- Tài khoản 5122 - Doanh thu bán các thành phẩm: Phản ánh doanh thu của khối lượng sản phẩm cung cấp giữa các đơn vị trong cùng công ty hay Tổng công ty.

Tài khoản này chủ yếu dùng cho các doanh nghiệp sản xuất như: Công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, xây lắp,. . .

- Tài khoản 5123 - Doanh thu cung cấp dịch vụ: Phản ánh doanh thu của khối lượng dịch vụ cung cấp giữa các đơn vị trong cùng công ty, Tổng công ty.

Tài khoản này chủ yếu dùng cho các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ như: Giao thông vận tải, du lịch, bưu điện,. . .

PHƯƠNG PHÁP HẠCH TOÁN KẾ TOÁN MỘT SỐ NGHIỆP VỤ KINH TẾ CHỦ YẾU

1. Đối với sản phẩm, hàng hoá xuất bán tại các đơn vị trực thuộc hạch toán phụ thuộc.

1.1. Đối với sản phẩm, hàng hoá thuộc đối tượng chịu thuế GTGT tính theo phương pháp khấu trừ và doanh nghiệp nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ.

a) Khi doanh nghiệp (Công ty, đơn vị cấp trên) xuất hàng hoá đến các đơn vị trực thuộc hạch toán phụ thuộc (Như các chi nhánh, cửa hàng) phải lập Phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ.

- Công ty, đơn vị cấp trên căn cứ vào Phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ, xác định giá vốn của sản phẩm, hàng hoá xuất cho các đơn vị trực thuộc để bán, ghi:

Nợ TK 157 - Hàng gửi đi bán (Giá vốn)

Có các TK 155, 156,. . .

- Khi đơn vị trực thuộc hạch toán phụ thuộc nhận được hàng hoá do công ty, đơn vị cấp trên chuyển đến, kế toán căn cứ vào Phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ và các chứng từ có liên quan, ghi:

Nợ TK 156 - Hàng hoá (Giá bán nội bộ)

Có TK 336 - Phải trả nội bộ.

b) Khi đơn vị trực thuộc hạch toán phụ thuộc (Là đơn vị chịu thuế GTGT tính theo phương pháp khấu trừ), bán sản phẩm, hàng hoá chịu thuế GTGT do công ty, đơn vị cấp trên chuyển đến phải lập Hoá đơn GTGT hàng hoá bán ra theo quy định.

- Đơn vị trực thuộc hạch toán phụ thuộc căn cứ vào Hoá đơn GTGT phản ánh doanh thu bán hàng, ghi:

Nợ các TK 111, 112, 131,. . .

Có TK 511 - Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ (Giá bán chưa có thuế GTGT)

Có TK 3331 - Thuế GTGT phải nộp (33311).

- Công ty, đơn vị cấp trên căn cứ vào Bảng kê hoá đơn hàng hoá bán do đơn vị trực thuộc hạch toán phụ thuộc lập chuyển đến phải lập Hoá đơn GTGT phản ánh hàng hoá đã bán nội bộ gửi cho các đơn vị trực thuộc. Căn cứ vào Hoá đơn GTGT, kế toán phản ánh doanh thu bán hàng nội bộ theo giá bán nội bộ chưa có thuế GTGT, ghi:

Nợ các TK 111, 112, 131 (Giá bán nội bộ đã có thuế GTGT)

Có TK 511 - Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ (Giá bán nội bộ chưa có thuế GTGT)

Có TK 3331 - Thuế GTGT phải nộp (33311).

Đồng thời phản ánh giá vốn của hàng bán ra:

Nợ TK 632 - Giá vốn hàng bán

Có TK 157 - Hàng gửi đi bán.

- Khi đơn vị trực thuộc hạch toán phụ thuộc nhận được Hoá đơn GTGT về hàng hoá đã bán nội bộ do công ty, đơn vị cấp trên lập chuyển đến trên cơ sở số hàng hoá đã bán, căn cứ vào Hoá đơn GTGT phản ánh thuế GTGT đầu vào được khấu trừ, ghi:

Nợ TK 133 - Thuế GTGT được khấu trừ

Có TK 156 - Hàng hoá (Nếu chưa kết chuyển giá vốn hàng hoá)

Có TK 632 - Giá vốn hàng bán (Nếu đã kết chuyển giá vốn hàng hoá).

c) Trường hợp khi xuất hàng hoá giao cho các đơn vị trực thuộc hạch toán phụ thuộc, công ty, đơn vị cấp trên không sử dụng Phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ mà sử dụng ngay Hoá đơn (GTGT) thì khi xuất hàng hoá cho các đơn vị trực thuộc hạch toán phụ thuộc phải lập Hoá đơn (GTGT).

- Công ty, đơn vị cấp trên căn cứ vào Hoá đơn (GTGT) phản ánh doanh thu bán hàng, ghi:

Nợ các TK 111, 112, 131 (Giá bán nội bộ đã có thuế GTGT)

Có TK 511 - Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ (Giá bán nội bộ chưa có thuế GTGT)

Có TK 3331 - Thuế GTGT phải nộp (33311).

- Đơn vị thực thuộc hạch toán phụ thuộc khi nhận được Hoá đơn GTGT và hàng hoá do công ty (đơn vị cấp trên) giao cho để bán, căn cứ vào Hoá đơn GTGT và các chứng từ có liên quan phản ánh giá vốn của hàng nhập kho theo giá bán nội bộ chưa có thuế GTGT, thuế GTGT đầu vào được khấu trừ, ghi:

Nợ các TK 155, 156 (Giá bán nội bộ chưa có thuế GTGT)

Nợ TK 133 – Thuế GTGT được khấu trừ

Có các TK 111, 112, 336 (Tổng giá thanh toán nội bộ).

- Khi đơn vị trực thuộc hạch toán phụ thuộc xuất bán hàng hoá chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ do công ty, đơn vị cấp trên giao cho để bán phải lập Hoá đơn GTGT hàng hoá bán ra theo quy định và phản ánh doanh thu bán hàng, ghi:

Nợ các TK 111 , 112 , 131 (Tổng giá thanh toán)

Có TK 511 - Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ (Giá bán chưa có thuế GTGT)

Có TK 3331 - Thuế GTGT phải nộp (33311).

1.2. Đối với sản phẩm, hàng hoá không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT hoặc thuộc đối tượng chịu thuế GTGT tính theo phương pháp trực tiếp.

a) Khi doanh nghiệp nộp thuế GTGT tính theo phương pháp trực tiếp (Công ty, đơn vị cấp trên) xuất sản phẩm, hàng hoá không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT hoặc thuộc đối tượng chịu thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp đến các đơn vị trực thuộc hạch toán phụ thuộc để bán phải lập Phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ theo quy định.

- Công ty, đơn vị cấp trên căn cứ vào Phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ, xác định giá vốn của sản phẩm, hàng hoá xuất cho các đơn vị trực thuộc, ghi:

Nợ TK 157 - Hàng gửi đi bán (Giá vốn)

Có TK 155 - Thành phẩm

Có TK 156 - Hàng hoá.

- Đơn vị trực thuộc hạch toán phụ thuộc nhận được sản phẩm do công ty, đơn vị cấp trên chuyển đến, căn cứ vào Phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ và các chứng từ có liên quan, ghi:

Nợ TK 155 - Thành phẩm (Giá bán nội bộ)

Nợ TK 156 - Hàng hoá

Có các TK 111, 112, 336,. . .

b) Đơn vị trực thuộc hạch toán phụ thuộc nộp thuế GTGT tính theo phương pháp trực tiếp khi bán sản phẩm, hàng hoá không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT hoặc thuộc đối tượng chịu thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp do công ty (Đơn vị cấp trên) giao cho để bán phải lập Hoá đơn bán hàng.

- Đơn vị trực thuộc căn cứ vào Hoá đơn bán hàng phản ánh doanh thu bán hàng, ghi:

Nợ các TK 111, 112, 131,. . .

Có TK 511 - Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ (Tổng giá thanh toán)

- Công ty, đơn vị cấp trên căn cứ vào Bảng kê hoá đơn hàng hoá bán ra do đơn vị trực thuộc hạch toán phụ thuộc lập chuyển đến phải lập Hoá đơn bán hàng. Căn cứ vào hoá đơn bán hàng phản ánh doanh thu bán hàng, ghi:

Nợ các TK 111, 112, 136,. . .

Có TK 511 - Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ (Tổng giá bán nội bộ)

Đồng thời phản ánh giá vốn của hàng bán nội bộ:

Nợ TK 632 - Giá vốn hàng bán

Có TK 157 - Hàng gửi đi bán.

c) Trường hợp khi xuất hàng hoá giao cho các đơn vị trực thuộc hạch toán phụ thuộc, công ty, đơn vị cấp trên sử dụng ngay Hoá đơn bán hàng.

- Công ty, đơn vị cấp trên căn cứ vào Hoá đơn bán hàng phản ánh doanh thu bán hàng, ghi:

Nợ các TK 111, 112, 136,. . .

Có TK 512 - Doanh thu bán hàng nội bộ (Tổng giá bán nội bộ)

- Đơn vị trực thuộc hạch toán phụ thuộc nhận được sản phẩm, hàng hoá do công ty (Đơn vị cấp trên) giao cho để bán, căn cứ vào Hoá đơn bán hàng và các chứng từ có liên quan phản ánh giá vốn của sản phẩm nhập kho, ghi:

Nợ TK 155 - Thành phẩm (Giá bán nội bộ)

Có các TK 111, 112, 336,. . .

- Khi đơn vị trực thuộc hạch toán phụ thuộc xuất bán sản phẩm, hàng hoá do công ty, đơn vị cấp trên giao để bán phải lập Hoá đơn bán hàng. Căn cứ vào Hoá đơn bán hàng phản ánh doanh thu, ghi:

Nợ các TK 111 , 112 , 131,. . .

Có TK 511 - Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ (Tổng giá thanh toán)

2. Cuối kỳ, kết chuyển doanh thu hàng bán bị trả lại, khoản giảm giá hàng bán (nếu có) của hàng hoá tiêu thụ nội bộ sang Tài khoản “Doanh thu bán hàng nội bộ”, ghi:

Nợ TK 512 - Doanh thu bán hàng nội bộ

Có TK 531 - Hàng bán bị trả lại

Có TK 532 - Giảm giá hàng bán.

3. Cuối kỳ, xác định thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp trên doanh thu sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ đã bán nội bộ trong kỳ kế toán (nếu có), ghi:

Nợ TK 512 - Doanh thu bán hàng nội bộ

Có TK 3332 - Thuế tiêu thụ đặc biệt.

4. Cuối kỳ, xác định thuế GTGT phải nộp tính theo phương pháp trực tiếp của sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ đã bán nội bộ trong kỳ kế toán, ghi:

Nợ TK 512 - Doanh thu bán hàng nội bộ

Có TK 3331 - Thuế GTGT phải nộp.

5. Cuối kỳ, kết chuyển doanh thu bán hàng nội bộ sang Tài khoản 911 “Xác định kết quả kinh doanh”, ghi:

Nợ TK 512 - Doanh thu bán hàng nội bộ

Có TK 911 - Xác định kết quả kinh doanh.

6. Trường hợp trả lương cho công nhân viên và người lao động khác bằng sản phẩm, hàng hoá:

a) Đối với sản phẩm, hàng hoá thuộc đối tượng chịu thuế GTGT tính theo phương pháp khấu trừ, khi thượng hoặc trả lương cho công nhân viên và người lao động khác bằng sản phẩm, hàng hoá, ghi:

Nợ TK 334 - Phải trả người lao động (Tổng giá thanh toán)

Có TK 512 - Doanh thu bán hàng nội bộ (Giá bán chưa có thuế) (5121, 5122)

Có TK 3331 - Thuế GTGT phải nộp (33311).

b) Khi trả lương cho công nhân viên và người lao động khác bằng sản phẩm, hàng hoá không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT hoặc thuộc đối tượng chịu thuế GTGT tính theo phương pháp trực tiếp, ghi:

Nợ TK 334 - Phải trả người lao động

Có TK 512 - Doanh thu bán hàng nội bộ (Tổng giá thanh toán) (5121, 5122).

7. Trường hợp sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng nội bộ:

a) Nếu sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế GTGT tính theo phương pháp khấu trừ tiêu dùng nội bộ để phục vụ cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu, khi xuất dùng sản phẩm, hàng hoá sử dụng nội bộ, kế toán phản ánh doanh thu bán hàng nội bộ, ghi:

Nợ các TK 623, 641, 642,. . .

Có TK 512 - Doanh thu bán hàng nội bộ (Chi phí sản xuất sản phẩm hoặc giá vốn hàng hoá).

b) Nếu sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế GTGT tính theo phương pháp khấu trừ tiêu dùng nội bộ phục vụ cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT thì thuế GTGT phải nộp của sản phẩm, hàng hoá dịch vụ tiêu dùng nội bộ tính vào chi phí sản xuất, kinh doanh, kế toán phản ánh doanh thu bán hàng nội bộ là chi phí sản xuất sản phẩm hoặc giá vốn hàng bán, ghi:

Nợ các TK 623, 641, 642,. . .

Có TK 512 - Doanh thu bán hàng nội bộ (Chi phí sản xuất sản phẩm hoặc giá vốn hàng hoá)

Có TK 3331 – Thuế GTGT phải nộp (33311).

8. Trường hợp sử dụng sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ để khuyến mại, quảng cáo:

Đối với hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế GTGT tính theo phương pháp khấu trừ và doanh nghiệp nộp thuế GTGT tính theo phương pháp khấu trừ, khi xuất khuyến mại, quảng cáo:

- Nếu khuyến mại, quảng cáo phục vụ cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTCT tính theo phương pháp khấu trừ, kế toán phản ánh doanh thu sản phẩm, hàng hoá xuất khuyến mại, quảng cáo là chi phí sản xuất hoặc giá vốn hàng hoá, ghi:

Nợ TK 641 - Chi phí bán hàng

Có TK 512 - Doanh thu bán hàng nội bộ (Chi phí sản xuất sản phẩm hoặc giá vốn hàng hoá).

- Nếu khuyến mại, quảng cáo phục vụ cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế GTGT tính theo phương pháp trực tiếp hoặc không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT, kế toán phản ánh doanh thu bán hàng, thuế GTGT đầu ra phải nộp không được khấu trừ, ghi:

Học kế toán tổng hợp thực hành Tại bắc ninh Nợ TK 641 - Chi phí bán hàng (Chi phí sản xuất sản phẩm hoặc giá vốn hàng bán cộng thuế GTGT đầu ra)

Có TK 512 - Doanh thu bán hàng nội bộ (Chi phí sản xuất sản phẩm hoặc giá vốn hàng hoá)

Có TK 3331 - Thuế GTGT phải nộp (33311).

9. Trường hợp sử dụng sản phẩm, hàng hoá để biếu, tặng: Nếu biếu, tặng sản phẩm, hàng hoá thuộc đối tượng chịu thuế GTGT tính theo phương pháp khấu trừ cho các tổ chức, cá nhân bên ngoài được trang trải bằng quỹ khen thưởng, phúc lợi, kế toán phản ánh doanh thu bán hàng theo giá bán chưa có thuế GTCT, thuế GTGT đầu ra phải nộp không được khấu trừ, ghi:

Nợ TK 431 - Quỹ khen thưởng, phúc lợi (Tổng giá thanh toán)

dịch vụ kế toán thuế trọn gói giá rẻ tại gia lâm Có TK 512 - Doanh thu bán hàng nội bộ (Giá bán chưa Có thuế GTGT)

Có TK 3331 - Thuế GTGT phải nộp (33311).

10. Đối với hàng hoá, dịch vụ không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT hoặc thuộc đối tượng chịu thuế GTGT tính theo phương pháp trực tiếp, khi xuất để biếu, tặng cho các tổ chức, cá nhân bên ngoài được trang trải bằng quỹ khen thưởng, phúc lợi, ghi:

Nợ TK 431 - Quỹ khen thưởng, phúc lợi (Tổng giá thanh toán)

Có TK 512 - Doanh thu nội bộ (Tổng giá thanh toán).

dịch vụ kế toán thuế trọn gói giá rẻ tại gia lâm Theo Nice Accounting

[Read More...]


Hạch toán chuyên sâu tài khoản 711 - Thu nhập khác



TÀI KHOẢN 711 - THU NHẬP KHÁC

Tài khoản này dùng để phản ánh các khoản thu nhập khác, các khoản doanh thu ngoài hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.

Nội dung thu nhập khác của doanh nghiệp, gồm:

- Thu nhập từ nhượng bán, thanh lý TSCĐ;

- Chênh lệch lãi do đánh giá lại vật tư, hàng hoá, tài sản cố định đưa đi góp vốn liên doanh, đầu tư vào công ty liên kết, đầu tư dài hạn khác;

- Thu nhập từ nghiệp vụ bán và thuê lại tài sản;

- Thu tiền được phạt do khách hàng vi phạm hợp đồng;

- Thu các khoản nợ khó đòi đã xử lý xoá sổ;

- Các khoản thuế được NSNN hoàn lại;

- Thu các khoản nợ phải trả không xác định được chủ;

- Các khoản tiền thưởng của khách hàng liên quan đến tiêu thụ hàng hoá, sản phẩm, dịch vụ không tính trong doanh thu (Nếu có);

- Thu nhập quà biếu, quà tặng bằng tiền, hiện vật của các tổ chức, cá nhân tặng cho doanh nghiệp;

- Các khoản thu nhập khác ngoài các khoản nêu trên.

KẾT CẤU VÀ NỘI DUNG PHẢN ÁNH CỦA TÀI KHOẢN 711 - THU NHẬP KHÁC

Bên Nợ:

- Số thuế GTGT phải nộp (nếu có) tính theo phương pháp trực tiếp đối với các khoản thu nhập khác ở doanh nghiệp nộp thuế GTGT tính theo phương pháp trực tiếp.

- Cuối kỳ kế toán, kết chuyển các khoản thu nhập khác phát sinh trong kỳ sang Tài khoản 911 “Xác định kết quả kinh doanh”.

Bên Có:

Các khoản thu nhập khác phát sinh trong kỳ.

Tài khoản 711 không có số dư cuối kỳ.

PHƯƠNG PHÁP HẠCH TOÁN KẾ TOÁN MỘT SỐ NGHIỆP VỤ KINH TẾ CHỦ YẾU

1. Kế toán thu nhập khác phát sinh từ nghiệp vụ nhượng bán, thanh lý TSCĐ:

1.1. Phản ánh các khoản thu nhập về thanh lý, nhượng bán TSCĐ:

+ Đối với doanh nghiệp nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ, ghi:

Nợ các TK 111, 112, 131 (Tổng giá thanh toán)

Có TK 711 - Thu nhập khác (Số thu nhập chưa Có thuế GTGT)

Có TK 3331 - Thuế GTGT phải nộp (33311).

+ Đối với doanh nghiệp nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp, ghi:

Nợ các TK 111, 112, 131 (Tổng giá thanh toán)

Có TK 711 - Thu nhập khác (Tổng giá thanh toán).

1.2. Các chi phí phát sinh cho hoạt động thanh lý, nhượng bán TSCĐ, ghi:

Nợ TK 811 - Chi phí khác

Nợ TK 133 - Thuế GTGT được khấu trừ (Nếu có)

Có các TK 111, 112, 141, 331,. . . (Tổng giá thanh toán).

Đồng thời ghi giảm nguyên giá TSCĐ thanh lý, nhượng bán, ghi:

Nợ TK 214 - Hao mòn TSCĐ (Giá trị hao mòn)

Nợ TK 811 - Chi phí khác (Giá trị còn lại)

Có TK 211 - TSCĐ hữu hình (Nguyên giá)

Có TK 213 - TSCĐ vô hình (Nguyên giá).

2. Kế toán thu nhập khác phát sinh khi đánh giá lại vật tư, hàng hoá TSCĐ đưa đi đầu tư vào công ty liên kết:

- Khi đầu tư vào công ty liên kết dưới hình thức góp vốn bằng vật tư, hàng hoá, căn cứ vào giá đánh giá lại vật tư, hàng hoá, được thoả thuận giữa nhà đầu tư và công ty liên kết, trường hợp giá đánh giá lại của vật tư, hàng hoá lớn hơn giá trị ghi sổ của vật tư, hàng hoá, ghi:

Nợ TK 223 - Đầu tư công ty liên kết (Giá đánh giá lại)

Có các TK 152, 153, 155, 156 (Giá trị ghi sổ)

Có TK 711 - Thu nhập khác (Chênh lệch giữa giá đánh giá lại lớn hơn giá trị ghi sổ của vật tư, hàng hoá).

- Khi đầu tư vào công ty liên kết dưới hình thức góp vốn bằng TSCĐ, căn cứ vào giá đánh giá lại TSCĐ được thoả thuận giữa nhà đầu tư và công ty liên kết, trường hợp giá đánh giá lại của TSCĐ lớn hơn giá trị còn lại của TSCĐ, ghi:

Nợ TK 223 - Đầu tư công ty liên kết (Giá đánh giá lại)

Nợ TK 214 - Hao mòn TSCĐ (Giá trị hao mòn luỹ kế)

Có các TK 211, 213 (Nguyên giá)

Có TK 711 - Thu nhập khác (Chênh lệch giữa giá trị đánh giá lại của TSCĐ lớn hơn giá trị còn lại của TSCĐ).

3. Kế toán thu nhập khác phát sinh từ hoạt động góp vốn vào cơ sở kinh doanh đồng kiểm soát:

3.1. Khi góp vào cơ sở kinh doanh đồng kiểm soát bằng vật tư, hàng hoá. Trường hợp đánh giá lại lớn hơn giá trị ghi trên sổ kế toán của vật tư, hàng hoá, ghi:

Nợ TK 222 - Vốn góp liên doanh (Giá trị đánh giá lại)

Có các TK 152, 153, 155, 156, 611 (Giá trị ghi sổ kế toán)

Có TK 3387 - Doanh thu chưa thực hiện (Số chênh lệch giữa giá đánh giá lại lớn hơn giá trị ghi sổ tương ứng với phần lợi ích của mình trong liên doanh) (Chi tiết chênh lệch do đánh giá 1ại vật tư, hàng hoá đem đi góp vốn vào cơ sở kinh doanh đồng kiểm soát)

Có TK 711 - Thu nhập khác (Số chênh lệch giữa giá trị đánh giá lại lóơn hơn giá trị ghi sổ tương ứng với phần lợi ích của các bên khác trong liên doanh).

- Khi cơ sở kinh doanh đồng kiểm soát đã bán số vật tư, hàng hoá đó cho bên thứ ba độc lập, bên góp vốn liên doanh kết chuyển sổ doanh thu chưa thực hiện (Phần hoãn lại khi góp vốn) vào thu nhập khác trong kỳ, ghi:

Nợ TK 3387 - Doanh thu chưa thực hiện

Có TK 711 - Thu nhập khác.

3.2. Khi góp vào cơ sở kinh doanh đồng kiểm soát bằng tài sản cố định. Trường hợp đánh giá lại lớn hơn giá trị còn lại của TSCĐ, ghi:

Nợ TK 222 - Vốn góp liên doanh (Giá đánh giá lại)

Nợ TK 214 - Hao mòn TSCĐ (Giá trị hao mòn)

Có TK 3387 - Doanh thu chưa thực hiện (Số chênh lệch giữa giá đánh giá lại lớn hơn giá trị còn lại của TSCĐ sẽ được hoãn lại phần chênh lệch tương ứng với phần lợi ích của mình trong liên doanh)

Có TK 711 - Thu nhập khác (Số chênh lệch giữa giá đánh giá lại lớn hơn giá trị còn lại của TSCĐ tương ứng với phần lợi ích của các bên khác trong liên doanh)

Có TK 211 - TSCĐ hữu hình (Nguyên giá)

Có TK 213 - TSCĐ vô hình (Nguyên giá).

- Hàng năm, căn cứ vào thời gian sử dụng hữu ích của tài sản cố định mà cơ sở kinh doanh đồng kiểm soát sử dụng, kế toán phân bổ số doanh thu chưa thực hiện vào thu nhập khác trong kỳ, ghi:

Nợ TK 3387 - Doanh thu chưa thực hiện (Chi tiết chênh lệch do đánh giá lại TSCĐ đem đi góp vốn)

Có TK 711 - Thu nhập khác (Phần doanh thu chưa thực hiện được phân bổ cho 1 năm).

- Trường hợp, hợp đồng liên doanh kết thúc hoạt động, hoặc bên góp vốn chuyển nhượng phần vốn góp liên doanh cho đối tác khác, kết chuyển toàn bộ khoản chênh lệch do đánh giá lại TSCĐ khi góp vốn còn chưa phân bổ sang thu nhập khác, ghi:

Nợ TK 3387 - Doanh thu chưa thực hiện (Chi tiết chênh lệch do đánh giá lại TSCĐ đem đi góp vốn)

Có TK 711 - Thu nhập khác.

4. Kế toán thu nhập khác phát sinh từ giao dịch bên góp vốn liên doanh bán TSCĐ cho cơ sở kinh doanh đồng kiểm soát.

- Khi bán TSCĐ cho cơ sở kinh doanh đồng kiểm soát, kế toán ghi giảm TSCĐ khi nhượng bán, ghi:

Nợ TK 811 - Chi phí khác (Giá trị còn lại)

Nợ TK 214 - Hao mòn tài sản cố định (Giá trị hao mòn TSCĐ)

Có các TK 211, 213 (Nguyên giá).

Đồng thời ghi nhận thu nhập khác do bán TSCĐ theo giá bán thực tế cho cơ sở kinh doanh đồng kiểm soát, ghi:

Nợ các TK 111, 112, 131,. . .

Có TK 711 - Thu nhập khác

Có TK 333 - Thuế và các khoản phải nộp cho Nhà nước (33311).

- Cuối kỳ, bên góp vốn liên doanh căn cứ vào các TSCĐ đã bán cho cơ sở kinh doanh đồng kiểm soát có lãi nhưng trong kỳ cơ sở kinh doanh đồng kiểm soát chưa bán TSCĐ cho bên thứ 3 độc lập mà để sử dụng, bên góp vốn liên doanh phải phản ánh hoãn lại và ghi nhận là doanh thu chưa thực hiện phần lãi do bán TSCĐ tương ứng với phần lợi ích của mình trong cơ sở kinh doanh đồng kiểm soát, ghi:

Nợ TK 711 - Thu nhập khác (Phần hoãn lại do bán TSCĐ tương ứng với phần lợi ích của mình trong liên doanh)

Có TK 3387 - Doanh thu chưa thực hiện.

- Định kỳ, bên tham gia góp vốn liên doanh phân bổ dần phần lãi hoãn lại tương ứng với phần lợi ích của mình trong liên doanh vào thu nhập khác căn cứ vào thời gian sử dụng hữu ích của TSCĐ mà cơ sở kinh doanh đồng kiểm soát sử dụng, ghi:

Nợ TK 3387 - Doanh thu chưa thực hiện

Có TK 711 - Thu nhập khác.

- Khi cơ sở kinh doanh đồng kiểm soát bán TSCĐ mua từ bên góp vốn liên doanh cho bên thứ ba độc lập, bên góp vốn liên doanh ghi:

Nợ TK 3387 - Doanh thu chưa thực hiện (Phần lãi tương ứng với phần lợi ích của mình trong liên doanh còn lại chưa phân bổ vào thu nhập khác)

Có TK 711 - Thu nhập khác.

5. Kế toán thu nhập khác phát sinh khi doanh nghiệp góp vốn bằng tài sản vào một doanh nghiệp khác nhưng chỉ nắm giữ dưới 20% quyền biểu quyết.

- Trường hợp góp vốn bằng vật tư, hàng hoá, căn cứ vào giá đánh giá lại vậu tư, hàng hoá, được thoả thuận giữa nhà đầu tư và bên nhận vốn góp, nếu giá đánh giá lại của vật tư, hàng hoá lớn hơn giá trị ghi sổ của vật tư, hàng hoá, ghi:

Nợ TK 228 - Đầu tư dài hạn khác (Giá đánh giá lại)

Có các TK 152, 153, 155, 156 (Giá trị ghi sổ)

Có TK 711 - Thu nhập khác (Chênh lệch giữa giá đánh giá lại lớn hơn giá trị ghi sổ của vật tư, hàng hoá).

- Trường hợp góp vốn bằng TSCĐ, căn cứ vào giá trị đánh giá lại TSCĐ được thoả thuận giữa nhà đầu tư và bên nhận vốn góp, nếu giá đánh giá lại của TSCĐ lớn hơn giá trị còn lại của TSCĐ, ghi:

Nợ TK 228 - Đầu tư dài hạn khác (Giá đánh giá lại)

Nợ TK 214 - Hao mòn TSCĐ (Giá trị hao mòn)

Có các TK 211, 213 (Nguyên giá)

Có TK 711 - Thu nhập khác (Chênh lệch giữa giá đánh giá lại của TSCĐ lớn hơn giá trị còn lại của TSCĐ).

6. Kế toán thu nhập khác phát sinh từ giao dịch bán và thuê lại TSCĐ là thuê tài chính:

- Trường hợp giao dịch bán và thuê lại TSCĐ với giá bán cao hơn giá trị còn lại của TSCĐ. Khi hoàn tất thủ tục bán tài sản cố định, căn cứ vào hoá đơn và các chứng từ liên quan, ghi:

Nợ các TK 111, 112, 131 (Tổng giá thanh toán)

Có TK 711 - Thu nhập khác (Theo giá trị còn lại của TSCĐ bán và thuê lại)

Có TK 3387 - Doanh thu chưa thực hiện (Chênh lệch giữa giá bán lớn hơn giá trị còn lại của TSCĐ)

Có TK 3331 – Thuế GTGT phải nộp.

Đồng thời, ghi giảm TSCĐ:

Nợ TK 811 - Chi phí khác (Giá trị còn lại của TSCĐ bán và thuê lại)

Nợ TK 214 - Hao mòn TSCĐ (Nếu có)

Có TK 211 - TSCĐ hữu hình (Nguyên giá TSCĐ).

- Trường hợp giao dịch bán và thuê lại với giá thấp hơn giá trị còn lại của TSCĐ. Khi hoàn tất thủ tục bàn tài sản, căn cứ vào hoá đơn và các chứng từ liên quan, ghi:

Nợ các TK 111, 112, 131 (Tổng giá thanh toán)

Có TK 711 - Thu nhập khác (Giá bán TSCĐ)

Có TK 3331 - Thuế GTGT phải nộp (Nếu có).

Đồng thời, ghi giảm TSCĐ:

Nợ TK 811 - Chi phí khác (Tính bằng giá bán TSCĐ)

Nợ TK 242 - Chi phí trả trước dài hạn (Chênh lệch giá bán nhỏ hơn giá trị còn lại của TSCĐ)

Nợ TK 214 - Hao mòn TSCĐ (Nếu có)

Có TK 211 - TSCĐ hữu hình (Nguyên giá TSCĐ).

Các bút toán ghi nhận tài sản thuê và nợ phải trả về thuê tài chính, trả tiền thuê từng kỳ thực hiện theo quy định tại TK 212 - Tài sản cố định thuê tài chính.

7. Kế toán thu nhập khác phát sinh từ giao dịch bán và thuê lại TSCĐ là thuê hoạt động.

Khi bán TSCĐ và thuê lại, căn cứ vào Hoá đơn GTGT và các chứng từ liên quan đến việc bán TSCĐ, kế toán phản ánh giao dịch bán theo các trường hợp sau:

- Nếu giá bán được thoả thuận ở mức giá trị hợp lý thì các khoản lỗ hay lãi phải được ghi nhận trong kỳ phát sinh. Phản ánh số thu nhập bán TSCĐ, ghi:

Nợ các TK 111, 112, 131,. . .

Có TK 711 - Thu nhập khác (Giá bán TSCĐ)

Có TK 3331 - Thuế GTGT phải nộp (Nếu có).

Đồng thời, ghi giảm TSCĐ (Như trường hợp 6)

- Trường hợp gái bán và thuê lại TSCĐ thấp hơn giá trị hợp lý nhưng mức giá thuê thấp hơn giá thuê thị trường thì khoản lỗ này không được ghi nhận ngay mà phải phân bổ dần phù hợp với khoản thanh toán tiền thuê trong thời gian thuê tài sản. Căn cứ vào Hoá đơn GTGT và các chứng từ liên quan đến việc bán TSCĐ, phản ánh thu nhập bán TSCĐ, ghi:

Nợ các TK 111, 112,. . .

Có TK 711 - Thu nhập khác (Giá bán TSCĐ)

Có TK 3331 -Thuế GTGT phải nộp.

Đồng thời, ghi giảm TSCĐ (Như trường hợp 6)

- Nếu giá bán và thuê lại tài sản cao hơn giá trị hợp lý thì khoản chênh lệch cao hơn giá trị hợp lý không được ghi nhận ngay là một khoản lãi trong kỳ mà được phân bổ dần trong suốt thời gian mà tài sản đó được dự kiến sử dụng, còn số chênh lệch giữa giá trị hợp lý và giá trị còn lại được ghi nhận ngay là một khoản lãi trong kỳ.

+ Căn cứ vào Hoá đơn GTGT bán TSCĐ, ghi:

Nợ các TK 111, 112, 131,. . .

Có TK 711 - Thu nhập khác (Tính bằng giá trị hợp lý của TSCĐ)

Có TK 3387 - Doanh thu chưa thực hiện (Chênh lệch giữa giá bán cao hơn giá trị hợp lý của TSCĐ)

Có TK 3331 - Thuế GTGT phải nộp (Nếu có).

Đồng thời, ghi giảm TSCĐ bán và thuê lại (Như trường hợp 6)

+ Định kỳ, phân bổ chênh lệch giữa giá bán cao hơn giá trị hợp lý của TSCĐ bán và thuê lại ghi giảm chi phí sản xuất, kinh doanh trong kỳ phù hợp với khoản thanh toán tiền thuê trong suốt thời gian mà tài sản đó dự kiến sử dụng, ghi:

Nợ TK 3387 - Doanh thu chưa thực hiện

Có các TK 623, 627, 641, 642.

8. Khi hết thời hạn bảo hành công trình xây lắp, nếu công trình không phải bảo hành hoặc số dự phòng phải trả về bảo hành công trình xây lắp lớn hơn chi phí thực tế phát sinh thì số dự phòng phải trả về bảo hành công trình xây lắp không sử dụng hết phải hoàn nhập, ghi:

Nợ TK 352 - Dự phòng phải trả

Có TK 711 - Thu nhập khác.

9. Phản ánh các khoản thu tiền phạt khách hàng do vi phạm hợp đồng:

- Khi thu phạt khách hàng do vi phạm hợp đồng kinh tế, ghi :

Nợ các TK 111, 112,. . .

Có TK 711 - Thu nhập khác.

- Trường hợp đơn vị ký quỹ, ký cược vi phạm hợp đồng kinh tế đã ký kết với doanh nghiệp bị phạt theo thoả thuận trong hợp đồng kinh tế:

+ Đối với khoản tiền phạt khấu trừ vào tiền ký quỹ, ký cược của người ký quỹ, ký cược, ghi:

Nợ TK 338 - Phải trả, phải nộp khác (Đối với khoản ký quỹ, ký cược ngắn hạn)

Nợ TK 344 - Nhận ký quỹ, ký cược dài hạn (Đối với khoản ký quỹ, ký cược dài hạn)

Có TK 711 - Thu nhập khác.

+ Khi thực trả khoản ký quỹ, ký cược cho người ký quỹ, ký cược, ghi:

Nợ các TK 338, 344 (Đã trừ khoản tiền phạt) (Nếu có)

Có các TK 111, 112,. . .

10. Phản ánh tiền bảo hiểm được các tổ chức bảo hiểm bồi thường, ghi:

Nợ các TK 111, 112,. . .

Có TK 711 - Thu nhập khác.

- Các khoản chi phí liên quan đến xử lý các thiệt hại đối với những trường hợp đã mua bảo hiểm, ghi:

Nợ TK 811 - Chi phí khác

Nợ TK 133 - Thuế GTGT được khấu trừ (Nếu có)

Có các TK 111, 112, 152,. . .

11. Hạch toán các khoản phải thu khó đòi đã xử lý xoá sổ, nay thu lại được tiền:

- Nếu có khoản nợ phải thu khó đòi thực sự không thể thu nợ được phải xử lý xoá sổ, căn cứ vào biên bản xử lý xoá sổ, ghi:

Nợ TK 139 - Dự phòng phải thu khó đòi

Nợ TK 642 - Chi phí quản lý doanh nghiệp (Nếu chưa lập dự phòng)

Có TK 131 - Phải thu khách hàng.

Đồng thời, ghi đơn bên Nợ TK 004 “Nợ khó đòi đã xử lý” (Tài khoản ngoài Bảng CĐKT) nhằm tiếp tục theo dõi trong thời hạn quy định để có thể truy thu người mắc nợ số tiền đó.

- Khi truy thu được khoản nợ khó đòi đã xử lý xoá sổ, ghi:

Nợ các TK 111, 112,. . .

Có TK 711 - Thu nhập khác.

Đồng thời ghi đơn bên Có TK 004 “Nợ khó đòi đã xử lý” (Tài khoản ngoài Bảng CĐKT).

12. Các khoản nợ phải trả không xác định được chủ nợ, quyết định xoá sổ và tính vào thu nhập khác, ghi:

Nợ TK 311 - Phải trả cho người bán

Nợ TK 338 - Phải trả, phải nộp khác

Có TK 711 - Thu nhập khác.

13. Trường hợp được giảm thuế GTGT phải nộp:

- Nếu số GTGT được giảm, trừ vào số thuế GTGT phải nộp, nếu được tính vào thu nhập khác trong kỳ, ghi:

Nợ TK 3331 - Thuế GTGT phải nộp

Có TK 711 - Thu nhập khác.

- Nếu số GTGT được giảm tính vào thu nhập khác, khi NSNN trả lại bằng tiền, ghi:

Nợ các TK 111, 112,. . .

Có TK 711 - Thu nhập khác.

14. Các khoản hoàn thuế xuất khẩu, nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt được tính vào thu nhập khác (nếu có), ghi:

Nợ các TK 111, 112,. . .

Có TK 711 - Thu nhập khác.

15. Trường hợp doanh nghiệp được tài trợ, biếu, tặng vật tư, hàng hoá, TSCĐ,. . . ghi:

dịch vụ hóa đơn điện tử tại quận thanh xuân Nợ các TK 152, 156, 211,. . .

Có TK 711 - Thu nhập khác.

16. Cuối kỳ kế toán, tính và phản ánh số thuế GTGT phải nộp theo phương pháp trực tiếp của số thu nhập khác, ghi:

Nợ TK 711 - Thu nhập khác

Có TK 3331 - Thuế GTGT phải nộp.

dịch vụ kế toán thuế trọn gói giá rẻ tại bắc ninh 17. Cuối kỳ, kết chuyển các khoản thu nhập khác phát sinh trong kỳ vào Tài khoản 911 “Xác định kết quả kinh doanh”, ghi:

Nợ TK 711 - Thu nhập khác

Có TK 911 - Xác định kết quả kinh doanh.
Học kế toán tổng hợp thực hành Tại hải phòng Theo Nice Accounting

[Read More...]


Giới thiệu hệ thống tài khoản loại 5 - Doanh Thu



LOẠI TÀI KHOẢN 5 - DOANH THU

Loại tài khoản này dùng để phản ánh toàn bộ doanh thu bán sản phẩm, hàng hoá bất động sản đầu tư, dịch vụ, tiền lãi, tiền bản quyền, cổ tức và lợi nhuận được chia, các khoản chiết khấu thương mại, giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại.

Doanh thu là tổng giá trị các lợi ích kinh tế doanh nghiệp đã thu được trong kỳ kế toán, phát sinh từ các hoạt động SXKD thông thường của doanh nghiệp, góp phần làm tăng vốn chủ sở hữu. Các khoản thu hộ bên thứ ba không phải là nguồn lợi ích kinh tế, không làm tăng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp sẽ không được coi là doanh thu.

HẠCH TOÁN LOẠI TÀI KHOẢN NÀY CẦN TÔN TRỌNG MỘT SỐ QUY ĐỊNH SAU

1. Việc xác định và ghi nhận doanh thu phải tuân thủ các quy định trong Chuẩn mực kế toán số 14 “Doanh thu và thu nhập khác” và các Chuẩn mực kế toán khác có liên quan.

2. Việc ghi nhận doanh thu và chi phí phải theo nguyên tắc phù hợp. Khi ghi nhận một khoản doanh thu thì phải ghi nhận một khoản chi phí tương ứng có liên quan đến việc tạo ra doanh thu đó.

3. Chỉ ghi nhận doanh thu bán sản phẩm, hàng hoá, khi thoả mãn đồng thời 5 điều kiện sau:

Doanh nghiệp đã trao phần lớn rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu sản phẩm hoặc hàng hoá cho người mua;

- Doanh nghiệp không còn nắm giữ quyền quản lý hàng hoá như người sở hữu hàng hoá hoặc quyền kiểm soát hàng hoá;

- Doanh thu được xác định tương đối chắc chắn;

- Doanh nghiệp đã thu được hoặc sẽ thu được lợi ích kinh tế từ giao dịch bán hàng;

- Xác định được chi phí liên quan đến giao dịch bán hàng.

4. Doanh thu của giao dịch về cung cấp dịch vụ được ghi nhận khi kết quả của giao dịch đó được xác định một cách đáng tin cậy. Trường hợp giao dịch về cung cấp dịch vụ liên quan đến nhiều kỳ thì doanh thu được ghi nhận trong kỳ theo kết quả phần công việc đã hoàn thành vào ngày lập Bảng cân đối kế toán của kỳ đó. Kết quả của giao dịch cung cấp dịch vụ được xác định khi thoả mãn đồng thời bốn (4) điều kiện sau:

- Doanh thu được xác định tương đối chắc chắn;

- Có khả năng thu được lợi ích kinh tế từ giao dịch cung cấp dịch vụ đó;

- Xác định được phần công việc đã hoàn thành vào ngày lập Bảng cân đối kế toán;

- Xác định được chi phí phát sinh cho giao dịch và chi phí để hoàn thành giao dịch cung cấp dịch vụ đó.

5. Khi hàng hoá hoặc dịch vụ được trao đổi để lấy hàng hoá hoặc dịch vụ tương tự về bản chất và giá trị thì việc trao đổi đó không được coi là một giao dịch tạo ra doanh thu và không được ghi nhận là doanh thu.

6. Doanh thu phải được theo dõi riêng biệt theo từng loại doanh thu: Doanh thu bán hàng, doanh thu cung cấp dịch vụ, doanh thu tiền lãi, tiền bản quyền, cổ tức và lợi nhuận được chia. Trong từng loại doanh thu lại được chi tiết theo từng khoản doanh thu, như doanh thu bán hàng có thể được chi tiết thành doanh thu bán sản phẩm, hàng hoá,. . . nhằm phục vụ cho việc xác định đầy đủ, chính xác kết quả kinh doanh theo yêu cầu quản lý hoạt động sản xuất, kinh doanh và lập báo cáo kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.

7. Nếu trong kỳ kế toán phát sinh các khoản giảm trừ doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ, như chiết khấu thương mại, giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại thì phải được hạch toán riêng biệt. Các khoản giảm trừ doanh thu được tính trừ vào doanh thu ghi nhận ban đầu để xác định doanh thu thuần làm căn cứ xác định kết quả kinh doanh của kỳ kế toán.

Học kế toán tổng hợp thực hành Tại bắc ninh 8. Về nguyên tắc, cuối kỳ kế toán, doanh nghiệp phải xác định kết quả hoạt động SXKD. Toàn bộ doanh thu thuần thực hiện trong kỳ kế toán được kết chuyển vào Tài khoản 911 - Xác định kết quả kinh doanh. Các tài khoản thuộc loại tài khoản doanh thu không có số dư cuối kỳ.

Loại Tài khoản 5 - Doanh thu có 6 tài khoản, chia thành 3 nhóm:

Nhóm TK 51 - Doanh thu, có 03 tài khoản:

- Tài khoản 511 - Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ;

- Tài khoản 512 - Doanh thu bán hàng nội bộ;
dịch vụ kế toán thuế trọn gói giá rẻ tại bắc ninh
- Tài khoản 515 - Doanh thu hoạt động tài chính.

Nhóm TK 52 - Có 01 tài khoản:

- Tài khoản 521 - Chiết khấu thương mại.

Nhóm TK 53 - Có 02 tài khoản:

- Tài khoản 531 - Hàng bán bị trả lại;

- Tài khoản 532 - Giảm giá hàng bán.
dịch vụ hóa đơn điện tử tại vĩnh phúc Theo Nice Accounting

[Read More...]


Năm tài chính - doanh nghiệp có quyền được lựa chọn



Ông Bùi Văn Mai, Vụ trưởng Vụ Chế độ kế toán và kiểm toán Bộ Tài chính đã cho biết "Doanh nghiệp được linh hoạt chọn năm tài chính" khi trao đổi với phóng viên. Trong khi số lượng công ty kiểm toán được chấp thuận kiểm toán cho doanh nghiệp trên TTCK vẫn còn hạn chế thì việc chọn năm tài chính vào nhiều thời điểm kết thúc khác nhau, một mặt giảm áp lực cho các công ty kiểm toán, mặt khác giúp các doanh nghiệp niêm yết, công ty đại chúng có được báo cáo kiểm toán chất lượng cao.

 Câu lạc bộ các DN niêm yết cho biết sẽ kiến nghị lên Chính phủ và Bộ Tài chính cho DN tự chọn năm tài chính thích hợp với đặc thù mỗi ngành, nhằm giảm áp lực thiếu công ty kiểm toán. Theo Ông, kiến nghị trên có hợp lý không?

DN đã được chủ động lựa chọn thời điểm kết thúc năm tài chính sao cho có lợi nhất. Luật Kế toán năm 2003 qui định, kỳ kế toán gồm kỳ kế toán năm, quý và tháng. Theo đó, kỳ kế toán năm là 12 tháng, tính từ đầu ngày 1/1 đến hết ngày 31/12 năm dương lịch. DN có đặc thù riêng về tổ chức hoạt động được chọn kỳ kế toán năm là 12 tháng tròn theo năm dương lịch bắt đầu từ ngày 1 tháng đầu quí này đến hết ngày cuối cùng của tháng cuối quý trước năm sau và thông báo cho cơ quan tài chính biết.
Việc kiến nghị của các DN như vừa nêu có thể là do họ chưa nắm rõ chính sách hoặc băn khoăn thế nào là DN hoạt động đặc thù nhưng theo tôi, các DN đều có thể tự lựa chọn, chứ không nên dồn vào thời điểm 31/12 hàng năm như hiện nay. Trong bối cảnh số lượng công ty kiểm toán còn thiếu thì DN nên linh hoạt lựa chọn năm tài chính để thuận tiện cho việc thuê công ty kiểm toán cũng như giãn tiến độ công việc của mình.

Việc lựa chọn năm tài chính có khó khăn hay không khi vẫn chưa có nhiều doanh nghiệp thực hiện, thưa Ông?
Tôi nghĩ là không có khó khăn gì, chủ yếu là do các Dn chưa biết đến các qui định này. Khi thực hiện thay đổi năm tài chính, DN chỉ cần thông báo với cơ quan thuế và thực hiện đúng chế độ về kế toán, kiểm toán. Chẳng hạn, DN đang thực hiện năm tài chính từ đầu năm (từ 01/01 đến 31/12) muốn thay đổi thành từ ngày 01/04 đến 31/03 năm sau thì Luật cũng cho phép năm tài chính (năm đầu tiên thay đổi) được tính là 15 tháng (từ ngày 1/1 năm đầu tiên đến ngày 31/3 năm sau và năm thứ hai từ ngày 01/04 đến ngày 31/03 năm sau).
Quy định về công bố thông tin (Thông tư số 38/2007/TT-BTC) của các công ty đại chúng cũng nêu rõ, ngày hoàn thành báo cáo tài chính năm được tính từ ngày tổ chức kiểm toán được chấp thuận ký báo cáo kiểm toán. Thời hạn hoàn thành báo cáo tài chính năm chậm nhất là 90 ngày, kể từ ngày kết thúc năm tài chính.
Việc lựa chọn năm tài chính theo đặc thù của doanh nghiệp, thế giới đã làm từ lâu và tôi nghĩ không chỉ DN niêm yết, mà các DN khác cũng nên thay đổi cho phù hợp với thông lệ quốc tế.

UBCKNN vừa cho phép mở rộng đối tượng kiểm toán các công ty đại chúng. Ông bình luận gì về vấn đề này?
Hiện nay các công ty kiểm toán được chấp thuận là 26 công ty. Với quyết định như trên thì tất cả các công ty kiểm toán độc lập (khoảng 140 công ty) cũng sẽ được kiểm toán các công ty đại chúng, công ty chứng khoán, quỹ đầu tư… Theo tôi, quyết định như thế sẽ ảnh hưởng đến chất lượng báo cáo kiểm toán vì năng lực, trình độ của các công ty kiểm toán hiện nay rất khác nhau. Có công ty ra đời hàng chục năm, có công ty mới thành lập được 2 tháng; có công ty qui mô lớn với vài chục kiểm toán viên, có công ty chỉ 10 người với 3 kiểm toán viên… Việc đồng loạt cho phép các công ty kiểm toán thực hiện kiểm toán công ty đại chúng còn gây tâm lý không tốt cho những công ty kiểm toán đã nỗ lực rất nhiều để lọt vào danh sách được UBCK chấp thuận.
Tôi biết, trước sức ép về việc nộp báo cáo kiểm toán năm 2007 của các công ty đại chúng trong khi số lượng công ty kiểm toán được chấp thuận có hạn nên UBCKNN mới có quyết định như trên. Sẽ là hợp lý hơn nếu giải pháp này chỉ là ngắn hạn (1 năm) và vẫn phải lựa chọn các công ty theo tiêu chí nhất định, chứ không nên cùng lúc cho tất cả các công ty kiểm toán đều được kiểm toán.

Học kế toán tổng hợp thực hành Tại bắc ninh Ông đánh giá thế nào về chất lượng báo cáo kiểm toán của các công ty đại chúng hiện nay?
Tôi xin khẳng định, báo cáo tài chính đã qua kiểm toán sẽ tốt hơn nhiều. Còn độ chính xác của báo cáo tài chính và báo cáo kiểm toán thì tuỳ thuộc vào từng DN cũng như công ty kiểm toán.

Có thể hoạt động của công ty kiểm toán có chất lượng tốt nhưng số liệu, cứ liệu mà doanh nghiệp đưa ra không hẳn là chính xác. Việc kiểm toán được thực hiện trên số liệu này, như vậy báo cáo kiểm toán do công ty kiểm toán thực hiện vẫn có thể bị sai, thưa Ông?
dịch vụ kế toán thuế trọn gói giá rẻ tại hà đông Tôi không nghĩ như vậy, bởi công ty kiểm toán uy tín khi thực hiện kiểm toán sẽ tuân thủ chặt chẽ các qui trình nghiệp vụ. Chẳng hạn, khi nghi ngờ một số liệu nào đó, họ phải kiểm tra chéo, thẩm định qua các kênh khác để có thông tin chính xác, chứ không chỉ dựa vào số liệu do DN cung cấp.
Sau khi kiểm toán, công ty kiểm toán đều phải đưa ra bản báo cáo kiểm toán, trong đó trình bày rõ ý kiến kết luận của kiểm toán viên. Điều này không chỉ có giá trị pháp lý, mà còn là uy tín của công ty kiểm toán, là trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên. Do đó, không có kiểm toán viên nào biết sai mà vẫn kết luận là đúng cả.
Tuy nhiên, cần phải nói thêm rằng, do việc xử lý chưa nghiêm những trường hợp DN cung cấp số liệu sai hoặc kiểm toán viên chưa thận trọng, làm ảnh hưởng đến chất lượng của báo cáo kiểm toán, nên đây đó vẫn xảy ra trường hợp sai sót.
dịch vụ hóa đơn điện tử tại Quận Hà Đông
Xin cảm ơn Ông!
Theo Đầu tư chứng khoán

[Read More...]


Thực trạng áp dụng chế độ kế toán với hộ kinh doanh cá thể



Hiện nay, toàn quốc có trên 3 triệu cơ sở kinh doanh cá thể. Mức tăng bình quân hàng năm khoảng 5%. Khu vực kinh tế này cũng đóng góp tới 72% tỷ trọng tổng thu thuế môn bài mà ngành thuế thu được.

Tuy vậy, số thu từ khu vực kinh tế này được đánh giá là nhỏ, nhiều nơi còn có biểu hiện thất thu. Ngành thuế dự kiến sẽ mở rộng việc áp dụng chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ đối với thành phần kinh tế hộ tư nhân.

Theo kết quả điều tra của tổng cục thống kê, số cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể có tốc độ phát triển rất mạnh. Từ 1,87 triệu cơ sở năm 1995, tới nay con số đã lên tới trên 3 triệu, tức là gấp nhiều lần so với số lượng các Doanh nghiệp đang hoạt động. Nếu lấy tiêu chuẩn của một Doanh nghiệp siêu nhỏ là từ 1 đến 4 lao động thì mỗi cơ sở này có thể coi là một Doanh nghiệp. Nếu đúng theo con số này, VN hiện nay bình quân cứ 26 người có một Doanh nghiệp đang hoạt động, cao hơn Australia (28 người dân/1 Doanh nghiệp) và chỉ thấp hơn Pháp (25 người dân /1 Doanh nghiệp). Tài sản và nguồn vốn của khu vực cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể hiện chiếm 18% GDP, khoảng 130.000 tỷ đồng. Trong đó 80% lượng vốn đầu tư cho các ngành dịch vụ và 20 % đầu tư cho sản xuất. Năm 2005 doanh thu của khu vực này đạt 350.000 tỷ đồng, bình quân 120 triệu đồng/1 cơ sở. Riêng doanh thu bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng là 230.000 tỷ, chiếm tới 60% tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng toàn xã hội. Giá trị tăng thêm do khu vực kinh tế này cũng chiếm tới 18% GDP.

Một khảo sát mới đây cho thấy tốc độ tăng trưởng và thay đổi về cơ cấu ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh của khu vực này đang diễn ra rất mạnh. Với mức tăng bình quân khoảng 7%/năm, cơ cấu loại hình kinh doanh cũng thay đổi đáng kể. Đáng nói nhất là ngành kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn, tăng 132% hay đối với dịch vụ tài chính tín dụng tăng tới 32%. Nét nổi bật trong việc các cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể tham gia vào tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế có thể thấy rõ nét qua việc phát triển của các làng nghề. Với trên 400 làng nghề, hiện nay tổng mức hàng hoá XK từ các sản phẩm của làng nghề đã vượt quá con số 500 triệu USD (không kể các sản phẩm đồ gỗ).

Học kế toán tổng hợp thực hành Tại long biên Theo Tổng cục Thuế, mặc dù thuế môn bài thu từ cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể chiếm 72% tổng thuế môn bài nhưng thuế GTGT thu từ cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể chỉ chiếm 9,8% tổng thu thuế GTGT và thuế thu nhập Doanh nghiệp chỉ chiếm 14,7%. Tương tự, thuế tiêu thụ đặc biệt là 0,3% và thuế tài nguyên là 5%.

Thực tế khảo sát cho thấy mặc dù nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể có quy mô khá lớn, thậm chí lớn hơn cả các Doanh nghiệp thuộc loại nhỏ song các cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể này vẫn tồn tại ở dạng cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể mà không chuyển đổi sang các loại hình Doanh nghiệp. Việc duy trì mô hình cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể không những làm mất đi cơ hội phát triển, tạo thêm giá trị gia tăng của chính các cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể này mà còn tạo thêm khó khăn trong việc quản lý đối với ngành thuế.
dịch vụ kế toán thuế trọn gói giá rẻ tại bắc ninh
Hiện nay mặc dù có tới trên 3 triệu cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể song chỉ có chưa tới 35% các cơ sở này có đăng ký kinh doanh. Con số này cho thấy khả năng quản lý của các cơ quan chức năng đối với ít nhất 65% số cơ sở chưa đăng ký kinh doanh có thể đang bị bỏ trống. Cũng theo Tổng cục Thuế, năm 2003 số cơ sở đã có đăng ký kinh doanh nộp thuế môn bài chiếm 45%, số cơ sở nộp thuế GTGT chỉ có 41% Năm 2004, 2005 số cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể nộp thuế còn tiếp tục giảm thấp hơn.
dịch vụ hóa đơn điện tử tại Quận Ba Đình Tạp chí kế toán

[Read More...]


Minh bạch trong lập báo cáo tài chính



Việt Nam hiện đã công bố 26 chuẩn mực kế toán trên cơ sở vận dụng có chọn lọc chuẩn mực kế toán quốc tế, nhưng mức độ tuân thủ cũng như cách hiểu lại có nhiều điểm khác nhau. Vì sao lại có tình trạng này và đến khi nào chúng ta có thể hội nhập toàn bộ chuẩn mực kế toán, kiểm toán với quốc tế? Phỏng vấn PGS.TS Đặng Văn Thanh, Phó chủ tịch Hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam (VAA), Chủ tịch Câu lạc bộ Kế toán trưởng toàn quốc.

PV: Ông đánh giá thế nào về việc có sự chênh lệch lợi nhuận lên đến hàng chục tỷ đồng giữa BCTC trước và sau kiểm toán của một số DN niêm yết vừa qua?

Theo tôi, khi lập và công bố BCTC, ngoài những công ty thực hiện nghiêm túc và phản ánh đúng thực trạng tài chính thì có hai khả năng (tình huống) xảy ra. Để giảm bớt số lãi thực tế, giảm bớt thuế thu nhập DN phải nộp hoặc quá thận trọng với các diễn biến của thị trường, không ít công ty đã trích lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho, giảm giá các khoản đầu tư nói chung quá lớn, vượt quá mức cần thiết. Khả năng thứ hai, ngược lại có nhiều công ty trích lập dự phòng giảm giá quá ít so với mức độ giảm giá thực tế của các khoản đầu tư để che dấu tình trạng làm ăn yếu kém, tạo ra bức tranh giả tạo về thực trạng hoạt động của công ty.

Tôi cho rằng, hiện nay ở Việt Nam đã có tương đối đầy đủ quy định mang tính pháp lý và hướng dẫn về trích lập các khoản dự phòng. Tuy nhiên, không ít DN vẫn thực hiện không đúng, không đầy đủ vì nhiều nguyên nhân. Trước hết, đó là ý thức tuân thủ của các công ty, sau nữa là năng lực và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức được giao nhiệm vụ kiểm tra, kiểm soát. Có một thực tế, việc đánh giá, khai thác thông tin trên BCTC của các công ty, kể cả báo cáo nộp cho các cơ quan chức năng (Tài chính, Thuế, UBCK), đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng đã không được thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ. Không ít trường hợp BCTC của DN chậm nộp, chậm công bố, công bố không đầy đủ, không chính xác theo quy định vẫn không bị phát hiện hoặc có phát hiện nhưng không có thái độ xử lý đúng mức. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, vẫn còn một số quy định chưa rõ ràng, chưa đúng và còn phức tạp trong nội dung, trong diễn đạt, khiến cho vẫn còn những cách hiểu khác nhau khi thực hiện.

PV: Ông đánh giá thế nào về mức độ tuân thủ các chuẩn mực kế toán quốc tế mà Việt Nam đã ban hành?

Yêu cầu các DN áp dụng chuẩn mực kế toán đã được đặt ra từ lâu, từ khi bắt đầu công cuộc cải cách kế toán (1994). Nhưng do đặc điểm của cơ chế quản lý ở Việt Nam đã quá quen với thực hiện và tuân thủ các chế độ kế toán, mà chủ yếu lại là các văn bản hướng dẫn chế độ hoặc cụ thể hóa chính sách, chế độ vào từng lĩnh vực, từng ngành nghề cụ thể; trong khi đó, nhiều DN của Việt Nam thuộc sở hữu Nhà nước hoặc DNNN được cổ phần hóa; hơn 90% là DN nhỏ và vừa, nên việc áp dụng chuẩn mức kế toán còn lúng túng và chưa được sự quan tâm đúng mức.

Theo nhìn nhận của tôi thì các DN sẵn sàng nhập cuộc để công khai BCTC chủ yếu là các DN có hoạt động liên doanh, liên kết, DN niêm yết, ngân hàng, DN có vốn đầu tư nước ngoài. Các DN khác có nghiên cứu, áp dụng song song chuẩn mực và chế độ kế toán, nhưng mức độ hiểu biết và sẵn sàng tuân thủ chuẩn mực kế toán chưa cao lắm.

PV: Trong bối cảnh kinh tế hiện nay, thách thức lớn nhất đối với việc lập và công bố BCTC là gì thưa ông?

Đó là tính minh bạch. Công khai, minh bạch là phương thức hữu hiệu để công chúng, mà trước hết là NĐT có sự nhìn nhận và đánh giá đúng thực trạng của DN, trong đó có thực trạng tài chính. Lâu nay, vấn đề công khai, minh bạch đã được quan tâm, có nhiều quy chế, nhưng chưa có sự ràng buộc thật chặt chẽ về mặt pháp lý, nên rất nhiều trường hợp mới chỉ là công khai và dừng lại ở yêu cầu công khai, trong khi cái cần hơn lại là sự minh bạch. Không ít DN công bố BCTC và các thông tin còn nặng về hình thức, công bố cho có, không đầy đủ, thiếu chi tiết cần thiết và có DN chưa muốn có sự đánh giá đúng mức về thực trạng tài chính của mình.

PV: Ở nhiều nước, các chuẩn mực kế toán do hội nghề nghiệp ban hành, nhưng ở Việt Nam lại do Bộ Tài chính. Điều này có làm giảm tính sát thực của các chuẩn mực đối với từng ngành nghề?

Học kế toán tổng hợp thực hành Tại hải dương Hiện Bộ Tài chính vẫn là cơ quan quản lý nhà nước về kế toán và thực hiện công bố các chuẩn mực kế toán. Giá trị pháp lý của các quyết định về chuẩn mực kế toán không cao hơn các văn bản pháp luật Nhà nước, nhưng nó mang tính chỉ dẫn và mực thước cho DN lựa chọn trên cơ sở các quy định pháp lý và các chế độ kế toán của Nhà nước. Do đó, cùng với các chuẩn mực kế toán, Việt Nam vẫn có các quy định về chế độ kế toán vừa mang tính bắt buộc vừa mang tính hướng dẫn dưới hình thức các quyết định, các thông tư do Bộ Tài chính ban hành.

dịch vụ kế toán thuế trọn gói giá rẻ tại hai bà trưng Về lâu dài, để phù hợp với thông lệ quốc tế và cách thức quản lý của nhà nước pháp quyền trong nền kinh tế thị trường mở, cần có sự nhận thức đúng hơn về chuẩn mực kế toán và kiểm toán. Nhà nước ban hành luật pháp và các văn bản quy phạm pháp luật để điều hành và quản lý các hoạt động kinh tế - xã hội. Các chuẩn mực nghiệp vụ sẽ do các tổ chức nghề nghiệp soạn thảo và công bố. Việc quản lý nghề nghiệp và hành nghề của các chuyên gia kế toán, các kiểm toán viên sẽ do tổ chức nghề nghiệp kế toán đảm nhiệm, cả về tuân thủ quy định của nghề nghiệp và đạo đức hành nghề. Đó cũng là thông lệ trên thế giới và nhiều quốc gia thực hiện hàng chục năm nay.
dịch vụ hóa đơn điện tử tại quảng ninh Theo ĐTCK

[Read More...]


Nghiên cứu các chuẩn mực kế toán về công cụ tài chính



Giới thiệu:
Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 210/2009/TT-BTc ngày 06/11/2009 hướng dẫn áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế về trình bày BCTC và thuyết minh thông tin đối với công cụ tài chính.
Thông tư 210 có tầm quan trọng đặc biệt trong việc thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế Việt Nam với thế giới và nâng cao tính minh bạch của BCTC. Nó cũng minh chứng cho cam kết của Việt Nam từng bước tiến tới áp dụng tất cả các chuẩn mực kế toán quốc tế. Cả người sử dụng và người lập BCTC sẽ được hưởng lợi từ việc thực hiện Thông tư 120, mặc dù người lập BCTC gặp nhiều thách thức và khó khăn trong giai đoạn đầu.

Tính đến thời điểm thông tư này được ban hành, các chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS) về công cụ tài chính gồm có: IAS 32- Công cụ tài chính: Trình bày; IAS 39 – Công cụ tài chính: Ghi nhận và xác định giá trị; Chuẩn mực BCTC quốc tế (IFRS) số 7 – Công cụ tài chính: Thuyết minh. Ba chuẩn mực này (gọi chung là các IAS về công cụ tài chính) được coi là nằm trong nhóm các chuẩn mực khó, phức tạp và có ảnh hưởng sâu rộng nhất tới các đơn vị trong việc lập và trình bày BCTC. Còn tại Việt Nam thì chưa có các chuẩn mực này. Thông tư 210 ra đời, nhưng mới chỉ bao gồm IAS 32 và IFRS 7, mà chưa có IAS 39 (dự kiến, trong tương lai gần sẽ được ban hành).
Thông tư 210 được áp dụng cho tất cả các đơn vị thuộc mọi lĩnh vực, mọi thành phần kinh tế tại Việt Nam có các giao dịch liên quan đến công cụ tài chính. Do công cụ tài chính là định nghĩa rộng, bao trùm nhiều loại hình tài sản và nợ phải trả tài chính nên việc áp dụng các chuẩn mực sẽ có ảnh hưởng sâu rộng tới nhiều tổ chức, đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ tài chính ngân hàng.

IAS 32 – Công cụ tài chính: Trình bày
Mục đích của IAS 32 là hướng dẫn các nguyên tắc trong việc trình bày các công cụ tài chính trên BCTC.
Phân loại:
IAS 32 yêu cầu tổ chức phát hành các công cụ tài chính phải phân loại công cụ đó là nợ phải trả tài chính hoặc công cụ vốn chủ sở hữu phù hợp với bản chất và định nghĩa của nợ phải trả tài chính và công cụ vốn chủ sở hữu. Ví dụ, cổ phiếu ưu đãi phải được tổ chức phát hành trình bày là nợ phải trả khi công cụ này có nghĩa vụ theo hợp đồng trả tiền cho người nắm giữ công cụ.
Các công cụ tài chính không phải là công cụ vốn chủ sở hữu được tổ chức phát hành trình bày là nợ phải trả, dẫn tới giảm vốn chủ sở hữu và lợi nhuận, cũng như có thể ảnh hưởng tiêu cực tới hệ số đòn bẩy và cơ cấu vốn. “Cổ tức” trả cho công cụ được phân loại là nợ phải trả được ghi nhận là chi phí lãi.
Trình bày:
Một số công cụ tài chính có cả thành phần nợ phải trả và thành phần vốn chủ sở hữu, ví dụ như trái phiếu chuyển đổi. Giá trị ghi sổ ban đầu của công cụ tài chính phức hợp này được phân bổ cho thành phần nợ phải trả và vốn chủ sở hữu. Phần vốn chủ sở hữu (quyền chuyển đổi thành cổ phiếu) thường được xác định là giá trị còn lại của công cụ tài chính sau khi trừ đi giá trị hợp lý của phần nợ phải trả.
Yêu cầu này của IAS 32 không phải dễ thực hiện, do doanh nghiệp phát hành sẽ phải xác định giá trị hợp lý của nợ phải trả không có quyền chọn chuyển đổi. Đồng thời, xem xét các điều khoản chuyển đổi để xác định xem liệu quyền chuyển đổi sẽ được hạch toán vào vốn chủ sở hữu hay là công cụ phái sinh. Ví dụ, các doanh nghiệp tại Việt Nam phát hành trái phiếu chuyển đổi với điều khoản được tất toán nghĩa vụ bằng cách chuyển chúng thành một số lượng thay đổi cổ phiếu, tuỳ thuộc vào giá trị thị trường của cổ phiếu, sẽ được coi là nợ phải trả tài chính toàn bộ, mà không có cấu phần vốn chủ sở hữu.
Tại Việt Nam, các quy định và chế độ kế toán hiện hành đã bước đầu có các hướng dẫn về việc phân loại công cụ tài chính, cũng như về trình bày công cụ tài chính phức tạp. Tuy nhiên, quy định hiện hành còn chưa chi tiết và chưa có các nguyên tắc bao trùm các tình huống có thể phát sinh thực tế.
Do các yêu cầu này của IAS 32 và để đảm bảo cơ cấu vốn và kết quả kinh doanh, doanh nghiệp nên xem xét tất cả các điều khoản của các công cụ tài chính đã phát hành và đưa ra những hành động kịp thời như mua lại công cụ, thay đổi các điều khoản để qua đó giảm hoặc triệt tiêu các ảnh hưởng không đáng có.

IFRS 7- Công cụ tài chính: Thuyết minh
Mục đích của IFRS 7 nhằm hướng dẫn thuyết minh về công cụ tài chính để giúp cho người sử dụng BCTC đánh giá ảnh hưởng của công cụ tài chính đến tình hình tài chính và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, cũng như đánh giá bản chất, phạm vi và cách thức quản trị các rủi ro phát sinh từ công cụ tài chính của chính doanh nghiệp. Chuẩn mực này được ban hành dựa một phần vào Chuẩn mực IAS 30 dành cho ngân hàng mà Bộ Tài chính đã ban hành. Tuy nhiên, IFRS 7 bổ sung nhiều yêu cầu bắt buộc phải trình bày thông tin, như thông tin định tính và định lượng liên quan đến rủi ro thị trường. Hơn nữa, chuẩn mực này áp dụng cho tất cả các loại hình tổ chức, doanh nghiệp có nắm giữ các công cụ tài chính, chứ không chỉ các tổ chức tín dụng.

Thuyết minh về giá trị hợp lý:
Doanh nghiệp phải thuyết minh giá trị hợp lý của những tài sản và nợ phải trả tài chính để có thể so sánh với giá trị ghi sổ, cùng với thông tin về các phương pháp xác định giá trị hợp lý. Đây sẽ là một thách thức lớn đối với nhiều đơn vị ở Việt Nam do phần lớn khoản mục hiện ghi sổ theo giá gốc và việc xác định giá trị hợp lý trong nhiều trường hợp không đơn giản và có thể phải dùng tới các mô hình tính toán.

Thuyết minh định tính và định lượng
Đối với mỗi loại rủi ro phát sinh từ các công cụ tài chính, doanh nghiệp phải thuyết minh các thông tin về số liệu, mức độ và cách thức phát sinh rủi ro, các mục tiêu, chính sách, quy trình quản lý rủi ro và phương pháp sử dụng để đo lường rủi ro.
Các doanh nghiệp cũng sẽ phải xác định mức độ ảnh hưởng đến kinh doanh khi nhiều thông tin quản lý rủi ro được sử dụng nội bộ bởi Ban giám đốc thì nay phải thuyết trình ra bên ngoài.
Thuyết minh về rủi ro tín dụng
Sẽ có nhiều thông tin phải trình bày, trong đó có những nội dung không đơn giản trong việc lấy dữ liệu, như ước tính về giá trị hợp lý của tài sản đảm bảo nắm giữ bởi doanh nghiệp đối với tài sản tài chính đã quá hạn hoặc giảm giá.
Thuyết minh về rủi ro thanh khoản
Doanh nghiệp phải phân tích thời gian đáo hạn còn lại dựa theo hợp đồng của các khoản nợ phải trả tài chính. Đối với nhiều ngân hàng, việc quản lý thanh khoản được dựa nhiều hơn trên thông tin về luồng tiền ước tính. Do đó, thông tin về đáo hạn theo hợp đồng có thể đưa ra bức tranh xấu hơn trên thực tế. Vì vậy, doanh nghiệp nên cân nhắc giải thích bổ sung trong những trường hợp như vậy.
Thuyết minh về rủi ro thị trường
Doanh nghiệp phải thuyết minh và phân tích độ nhạy cảm đối với mỗi loại rủi ro thị trường (như lãi suất, tỷ giá, giá chứng khoán) tại ngày báo cáo, chỉ rõ mức độ ảnh hưởng tới kết quả của doanh nghiệp bởi thay đổi hợp lý trong các biến số rủi ro liên quan có khả năng tồn tại tại ngày báo cáo.
Doanh nghiệp nên khảo sát xem hệ thống kế toán hiện tại đáp ứng được đến đâu yêu cầu thông tin và nếu cầu thiết sẽ phải có giải pháp thay thế, ví dụ như xây dựng mô hình định lượng phân tích độ nhạy cảm hoặc áp dụng phương pháp quản lý rủi ro phù hợp để xác định ảnh hưởng của rủi ro. Việc xác định mức độ thay đổi hợp lý cũng không đơn giản và cần các ước tính và cách tiếp cận nhất định.

Đề xuất các giải pháp :
Thời gian không còn nhiều cho việc chuẩn bị áp dụng:
Mặc dù Thông tư 210 được áp dụng từ năm 2011 trở đi, nhưng thời gian còn lại để chuẩn bị cho việc áp dụng Thông tư này là không nhiều. Lý do chính bao gồm:
- Nội dung các chuẩn mực phức tạp, không chỉ đơn thuần bộ phận tài chính kế toán của doanh nghiệp có thể thực hiện được, mà trong nhiều trường hợp, sẽ phải có sự chuẩn bị đầu đủ về hệ thống công nghệ thông tin, quy trình nghiệp vụ, cơ sở dữ liệu… để cung cấp thông tin.
- Một trong những yêu cầu cơ bản trong chuẩn mực chung của Hệ thống Chuẩn mực kế toán Việt Nam là tính có thể so sánh được của các thông tin giữa các kỳ kế toán. Do đó, các doanh nghiệp nên cân nhắc lập số liệu so sánh cho ít nhất một năm. Ví dụ, đối với BCTC đầu tiên lập theo yêu cầu của Thông tư 210 cho năm 2011, số liệu so sánh được lập theo Thông tư 210 là cho năm 2010. Đối với các doanh nghiệp đã niêm yết và lập BCTC giữa niên độ hàng quý, số liệu so sánh có thể là quý I/2010 cho kỳ báo cáo đầu tiên kết thúc một năm sau đó.
Học kế toán tổng hợp thực hành Tại long biên
Các đơn vị nên cân nhắc thực hiện các giải pháp sau:
- Đánh giá ảnh hưởng của các chuẩn mực này, lên kế hoạch thực hiện, tìm giải pháp tương ứng và triển khai.
- Xây dựng chương trình, thay đổi hệ thống công nghệ thông tin, quy trình và nghiệp vụ phục vụ cho thu nhập và chiết xuất dữ liệu.
- Đào tạo nhân viên
dịch vụ kế toán thuế trọn gói giá rẻ tại hai bà trưng - Thông báo sớm về ảnh hưởng của các chuẩn mực này cho các bên có lợi ích trong doanh nghiệp (như HĐQT, Ban điều hành, các cổ đông, tổ chức phân tích đầu tư, cơ quan quản lý nhà nước). Đồng thời, đưa ra các hành động mà doanh nghiệp sẽ tiến hành để giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực, cũng như chiến lược quản lý rủi ro và mục tiêu, lý do nắm giữ các công cụ tài chính.
Trong việc thực hiện các giải pháp trên, doanh nghiệp có thể dùng nguồn lực nội bộ hoặc thuê bên ngoài. Đồng thời, doanh nghiệp cũng cần phối hợp chặt chẽ với kiểm toán viên để đảm bảo quá trình chuẩn bị được suôn sẻ.
dịch vụ hóa đơn điện tử tại bắc ninh Theo ĐTCK

[Read More...]


Tách lợi nhuận của doanh nghiệp ra khỏi giá xăng, dầu



Bộ Tài chính vừa có văn bản đề xuất với Chính phủ hướng sửa đổi, bổ sung Nghị định 84 về kinh doanh xăng dầu. Theo đó, công thức tính giá cơ sở, hoa hồng cho đại lý hay cơ chế sử dụng, quản lý Quỹ bình ổn giá sẽ có sự thay đổi lớn so với hiện nay.

Cụ thể, về công thức tính giá cơ sở, Bộ Tài chính đề xuất nghiên cứu quy định tính giá cơ sở bình quân 10 ngày, thay vì 30 ngày như hiện tại. Ngoài ra, cách tích giá cũng sẽ được nghiên cứu cho phù hợp với tần suất điều chỉnh giá (10 ngày) và số ngày dự trữ lưu thông (30 ngày).

Đặc biệt, Bộ Tài chính cho rằng nên đưa lợi nhuận định mức (hiện được quy định tối đa là 300 đồng một lít, kg) ra ngoài giá cơ sở để minh bạch tình hình lãi, lỗ của doanh nghiệp kinh doanh xăng, dầu.

Về thù lao, hoa hồng đại lý, Bộ Tài chính nhận định, mức chi phí này hiện nay do doanh nghiệp kinh doanh xăng, dầu tự thỏa thuận. Thực tế này dẫn tới việc mỗi doanh nghiệp quy định một mức khác nhau. Thậm chí có thời điểm, mức thù lao, hoa hồng của đại lý cao hơn cả mức khoán chi phí kinh doanh được Nhà nước quy định (với xăng, dầu diesel là 600 đồng/lít; dầu madút là 400 đồng/kg) để giành giật thị phần. Điều này gây khó khăn cho chính bản thân các doanh nghiệp, tạo ra sự phức tạp, lộn xộn thị trường.

dịch vụ hóa đơn điện tử tại Quận Hoàn Kiếm Vì thế, Bộ Tài chính đề xuất nâng chi phí bán lẻ bình quân ở các địa bàn gần cảng nhập khẩu, nhà máy từ 600 đồng hiện hành lên 860 đồng một lít, kg. Các địa bàn khác, chi phí này được cộng thêm tối đa 2% giá bán lẻ ở mỗi mặt hàng. Quan trọng hơn, mức chi hoa hồng của doanh nghiệp cho các đại lý, tổng đại lý không được vượt 50% chi phí bán lẻ bình quân này.

Với Quỹ bình ổn giá, Bộ Tài chính cho rằng nên trích lập Quỹ ở ngay khâu đầu khi nhập khẩu hay tại thời điểm bán ra cuối cùng. Quỹ sẽ được quản lý tập trung tại Kho bạc Nhà nước và phải có cơ chế sử dụng Quỹ bảo đảm phản ứng nhanh với sự biến động của thị trường và không tao ra cơ chế xin-cho, giảm bớt thủ tục hành chính.

dịch vụ kế toán thuế trọn gói giá rẻ tại hà đông Nguyên nhân của hướng sửa đổi, Bộ Tài chính cho rằng, Quỹ bình ổn giá đang bị phân tán ở doanh nghiệp nên việc kiểm soát số dư rất phức tạp, tốn thời gian, chi phí. Ngoài ra, do quỹ để tại doanh nghiệp nên bằng cách hạch toán nội bộ, doanh nghiệp vẫn có thể tạm sử dụng nguồn lực này vào mục đích khác. Điều này vừa tạo ra rủi ro, vừa tạo sự thiếu bình đẳng giữa các doanh nghiệp có quy mô quỹ khác nhau./.

Học kế toán tổng hợp thực hành Tại long biên Xuân Dũng
Theo Vietnam+
[Read More...]


Ổn định kinh tế vĩ mô là mục tiêu hàng đầu hiện nay



Tình hình kinh tế-xã hội trong 9 tháng qua tiếp tục có những chuyển biến tích cực và đúng hướng. Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn đang bộc lộ nhiều khó khăn, thách thức.

Để tốc độ tăng trưởng kinh tế cả năm 2012 đạt mức trên 5% như chỉ đạo của Chính phủ cần rất nhiều giải pháp căn cơ và mạnh mẽ.

Phóng viên đã có cuộc trao đổi với tiến sĩ Võ Trí Thành, Viện phó Viện Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) xung quanh vấn đề này.

- Ông đánh giá thế nào về tình hình kinh tế-xã hội 9 tháng qua?

Tiến sĩ Võ Trí Thành: Tình hình kinh tế 9 tháng qua cũng không nằm ngoài những đánh giá trước đó hoặc cách nhìn nhận gần đó của rất nhiều nhà phân tích và nhà nghiên cứu kinh tế.

Nhìn một cách tổng quan, kinh tế nước nhà vẫn tiếp tục khó khăn, đặc biệt trong sản xuất kinh doanh. Xuất khẩu tăng nhưng tốc độ giảm rất nhiều; tổng dư nợ tín dụng có tăng trưởng so với hồi cuối năm ngoái nhưng rất chậm (2,35%), mặc dù một số chỉ số như GDP, sản xuất công nghiệp và tồn kho có nhích lên.

Chính vì vậy, tuy tốc độ tăng trưởng GDP có xu hướng cải thiện sau từng quý, quý sau cao hơn quý trước, cụ thể GDP quý 1 tăng 4%, quý 2 tăng 4,66%, quý 3 ước tăng 5,35% nhưng tính chung GDP 9 tháng chỉ đạt khoảng 4,73%. Và dự báo, tốc độ tăng trưởng GDP cả năm 2012 chỉ đạt từ 5-5,2%.

Tuy nhiên, bên cạnh đó, một số chỉ số kinh tế vĩ mô như: cân đối cán cân thanh toán quốc tế, thặng dư, dự trữ ngoại tệ tăng nhanh, lạm phát giảm khá nhanh...là những dấu hiệu tốt của nền kinh tế.

- Vậy theo ông, những yếu tố nào đã ảnh hưởng mạnh đến sự phát triển của nền kinh tế?

Tiến sĩ Võ Trí Thành: Theo tôi, yếu tố tác động lớn nhất là từ hệ thống tài chính ngân hàng. Trong khi một số ngân hàng yếu kém chưa xử lý xong thì tình trạng nợ xấu đến nay chưa có kết luận cuối cùng về phương án xử lý.

Liên quan đến thu ngân sách với mức thu đang giảm rất mạnh làm ảnh hưởng đến nhu cầu chi cho phát triển kinh tế. Không những thế, năm nay lạm phát được dự báo ở mức khoảng 7,5-8,5%, nhưng tôi cho rằng rủi ro là vẫn có, mặc dù không thật cao nhưng xác xuất vẫn có thể xảy ra những biến động cơ bản của hàng hóa theo hướng bất lợi.

Bên cạnh đó, liên quan đến tính thời vụ của giai đoạn “bí” vốn, nếu chúng ta điều chỉnh chính sách vĩ mô trong quá trình hỗ trợ các doanh nghiệp không khéo có thể khiến lạm phát đi lên, do các doanh nghiệp có thể “no dồn đói góp” đẩy nguồn tiền ra bên ngoài.

Tóm lại, nhìn về nền kinh tế thực tuy có một vài chỉ tiêu tăng nhưng nhìn chung còn rất khó khăn. Theo tôi, câu chuyện này không chỉ là của 3 tháng cuối năm nay mà là câu chuyện của cả năm 2013 cho mục tiêu chính sách vĩ mô.

- Vượt qua khó khăn, để đạt mục tiêu tăng trưởng GDP trên 5% trong năm nay, theo ông, chúng ta cần tiếp tục triển khai những giải pháp nào?

Tiến sĩ Võ Trí Thành: Trước mắt, chúng ta cần tập trung xử lý những vấn đề ngắn hạn và bắt tay vào việc thay đổi cách thức phát triển nền kinh tế Việt Nam.

Thời gian qua chúng ta còn thiếu một sự cương quyết, triệt để trong sự linh hoạt cần thiết… do vậy, trong thời gian tới, tôi cho rằng cần lấy mục tiêu ổn định kinh tế làm trọng tâm, bên cạnh việc linh hoạt xử lý các chính sách, các biện pháp, đặc biệt là các chính sách vĩ mô để hỗ trợ một phần cho doanh nghiệp.

Hiện nay, việc xử lý những ngân hàng hoạt động yếu kém hay tái cơ cấu ngành ngân hàng không chỉ là khơi thông nguồn tín dụng cho sản xuất kinh doanh mà phải làm cho hệ thống ngân hàng thực sự lành mạnh, thực sự là một trung gian tài chính hiệu quả, để chuyển từ tiết kiệm sang đầu tư và tạo ra GDP.

Ngoài ra, có thể thêm các chính sách khác như khơi dòng tín dụng tốt hơn. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, theo tôi tăng trưởng tín dụng ở mức 8% là rất khó thực hiện, chỉ có thể đạt mức 6%. Đồng thời thực hiện kế hoạch đầu tư công cho hiệu quả và thêm những giải pháp cho cả bên "cung" lẫn bên "cầu" hỗ trợ cho doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, cần triệt để và quyết liệt hơn trong việc tái cấu trúc nền kinh tế, mặc dù quá trình này là khó khăn nhưng chúng ta phải “chịu đau” và phải làm, với tinh thần là không vội vã, bình tĩnh và có lộ trình, có bài bản.

- Vậy mục tiêu chính của năm nay có phải là ổn định kinh tế vĩ mô?

dịch vụ hóa đơn điện tử tại Quận Ba Đình Tiến sĩ Võ Trí Thành: Ổn định kinh tế vĩ mô không chỉ trong năm nay mà là câu chuyện của cả năm sau. Vấn đề là chúng ta cần xử lý mức trồi sụt quá đáng của nền kinh tế, mà cơ bản nó là một phần của quá trình thay đổi cách phát triển kinh tế của Việt Nam sao cho nguồn lực phân bổ có hiệu quả hơn và sản phẩm đầu ra được phân bổ công bằng hơn.

Như vậy, đi kèm là những chính sách vĩ mô cần phải thận trọng, chặt chẽ và linh hoạt. Do bối cảnh kinh tế thế giới còn bất ổn định nên trong quá trình thực hiện chúng ta có điều chỉnh cho phù hợp. Tóm lại, hồi phục nền kinh tế phải gắn với thay đổi cách làm và cách tăng trưởng. Tôi cho rằng mục tiêu của năm nay là cần ổn định kinh tế vĩ mô.

dịch vụ kế toán thuế trọn gói giá rẻ tại tphcm - Trước những diễn biến của nền kinh tế trong năm 2012, theo ông chúng ta có nên đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao trong năm 2013?

Tiến sĩ Võ Trí Thành: Cho đến nay, đã có một số dự báo về kinh tế Việt Nam trong năm 2013. Và một trong những “kịch bản” được đưa ra là kinh tế thế giới trong năm 2013 còn khó khăn nhưng có chiều hướng đi lên, cũng như có triển vọng tốt hơn. Theo đó, một số dự báo cho rằng, kinh tế Việt Nam trong năm 2013 có thể đạt mức cao hơn. Nếu năm nay đạt mức 5-5,2% thì năm sau tăng trưởng kinh tế có thể đạt quanh mức 5,5%.

Học kế toán tổng hợp thực hành Tại biên hòa - Xin cảm ơn ông!/.
Theo Vietnamplus

[Read More...]


Bớt “bật tường”, tổng tài sản nhiều ngân hàng giảm mạnh



Trong bóng đá, bật tường tạo nên đường bóng nhanh. Trong ngân hàng, “bật tường” vốn từng là cách tạo nên tốc độ cao cho tổng tài sản. Nay bị hạn chế, một sự sụt giảm là đương nhiên.


Hiện nay, thị trường liên ngân hàng bị thu hẹp, chỉ là “sân chơi” của một số thành viên.

Ngân hàng Nhà nước vừa cập nhật thống kê một số chỉ tiêu cơ bản về tình hình hoạt động hệ thống. Thay đổi đáng chú ý nhất trong tháng 9/2012 là quy mô tổng tài sản các nhà băng đã giảm đáng kể, đặc biệt ở khối ngân hàng thương mại cổ phần.

Lát cắt liên ngân hàng

Tính đến 30/9/2012, quy mô tổng tài sản có của hệ thống các tổ chức tín dụng là 4,866 triệu tỷ đồng, giảm 1,89% so với cuối năm 2011. Trong đó, khối ngân hàng thương mại nhà nước vẫn tăng trưởng với 5,05%; riêng khối ngân hàng thương mại cổ phần giảm tới 7,06%.

Kể từ khi Ngân hàng Nhà nước thực hiện Thông tư 35, dữ liệu thống kê bắt đầu được cập nhật từ tháng 4/2012. Mức giảm 7,06% của tháng 9 là mạnh nhất kể từ thời điểm có dữ liệu.

Vì sao có sự sụt giảm mạnh như vậy?

Tham vấn phân tích của một chuyên gia, tổng tài sản ngân hàng được xem xét theo ba cấu phần: trên thị trường 1 (dân cư và tổ chức kinh tế), thị trường 2 (giữa các ngân hàng - liên ngân hàng) và ở hoạt động đầu tư. Theo ông, trọng số rơi vào những thay đổi trên thị trường 2.

Nhiều năm qua, liên ngân hàng là một kênh giao dịch vốn chủ yếu của các ngân hàng thương mại, cả trực tiếp lẫn gián tiếp qua ủy thác đầu tư, tạo nên những vòng quay thúc đẩy quy mô tổng tài sản. Nay, cấu phần này đã hạn chế.

Trước đây, liên ngân hàng là một kênh cởi mở; đồng vốn trao đi - đổi lại, ngân hàng vừa gửi vừa cho vay; họ có thể sử dụng thủ thuật “bật tường” vốn qua lại lẫn nhau để vừa tăng tài sản có vừa tăng tài sản nợ. Nhưng nay, với Thông tư 21, có hiệu lực từ tháng 9 vừa qua, tiền gửi liên ngân hàng bị chuyển thành tiền vay kèm những điều kiện về “tư cách” được giao dịch, quy mô tạo tài sản theo đó bị hạn chế.

Theo phân tích của chuyên gia nói trên, không phải đợi đến khi Thông tư 21 có hiệu lực, kênh liên ngân hàng mới bị thu hẹp. Mà từ cuối 2011 đầu 2012, một hình thức giao dịch khác cũng đã phải tự hãm lại. Đó là qua ủy thác, mà vòng quay ở đây là đáng kể đổi với quy mô tổng tài sản.

Ông dẫn ví dụ: một nhà băng dùng vốn mồi 1.000 tỷ đồng, “chia” cho nhân viên đi gửi các ngân hàng khác lấy sổ tiết kiệm. Đó là vốn thật. Nhưng vốn “ảo” bắt đầu nảy sinh khi những sổ tiết kiệm đó được chiết khấu, lấy tiền tiếp tục đi gửi để tạo vòng quay mới. Cứ thế, ngân hàng “bật tường” vốn với nhau, vòng quay càng nhiều thì tổng tài sản càng tăng, và dĩ nhiên tài sản “ảo” càng lớn.

Cuối 2011 đầu 2012, những món nợ đồng lần từ kiểu giao dịch đó xuất hiện, rủi ro phát sinh. Tự thân nó xẹp xuống, và đương nhiên đến nay không còn góp phần bơm thổi cho tổng tài sản các nhà băng như trước nữa.

“Hiện nay, thị trường liên ngân hàng bị thu hẹp, chỉ là “sân chơi” của một số thành viên. Vốn khả dụng dư thừa nhưng nhiều anh không dám giao dịch, vì sợ rủi ro, sợ mất vốn”, chuyên gia này nói.

“Sợ mất vốn” cũng là cụm từ mà tổng giám đốc một ngân hàng thương mại nói tới khi chúng tôi tham vấn. Theo ông, nó giải thích vì sao thị trường liên ngân hàng giờ chỉ dành cho một nhóm nhất định và không còn là kênh thúc đẩy tổng tài sản để có thể gia tăng được như trước.

Về với giá trị thực

Vốn đã bớt “bật tường” qua lại. Hay như cách nói của chuyên gia trên là đã bớt đi những “động tác giả” trong việc mở rộng quy mô tổng tài sản.

Học kế toán tổng hợp thực hành Tại biên hòa “Như vậy cũng là hạn chế đi tài sản “ảo”. Bong bóng xẹp bớt để về gần hơn với giá trị thực”, ông nhìn nhận.

Ngoài nguyên nhân trên, theo chuyên gia này, tổng tài sản nhiều ngân hàng sụt giảm còn do khó khăn trên thị trường 1. Tín dụng tăng trưởng thấp là điểm nổi bật của năm nay.

Có lẽ đã qua thời chạy đua tăng tổng tài sản để thể hiện một cái gì đó về cạnh tranh, so đo về quy mô. Quan trọng nhất vẫn là chất lượng tài sản. Tổng giám đốc một ngân hàng thương mại

Ông lưu ý thêm, tăng trưởng tín dụng thấp như vậy còn do yếu tố “ảo” cuối năm 2011. Bởi đón cơ chế phân nhóm giao chỉ tiêu, các nhà băng có động cơ tạo con số dư nợ tuyệt đối lớn vào thời điểm 31/12/2011 để có thể nắm “room” tín dụng nhiều hơn trong năm 2012. Điều này cũng đã từng được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình đề cập tới, mà nếu loại trừ thì thực tế tăng trưởng tín dụng đến nay có thể đã cao hơn…

dịch vụ kế toán thuế trọn gói giá rẻ tại từ liêm Cùng quan điểm, vị tổng giám đốc được tham vấn cũng cho rằng tổng tài sản của các ngân hàng đang trở về giá trị thực.

“Nhưng tổng tài sản không quá quan trọng. Giảm như vậy cũng không hẳn là đáng lo ngại. Có lẽ đã qua thời chạy đua tăng tổng tài sản để thể hiện một cái gì đó về cạnh tranh, so đo về quy mô. Quan trọng nhất vẫn là chất lượng tài sản”, ông nhấn mạnh.

Và người trong cuộc này đưa ra loạt câu hỏi gợi ý: chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản là tài sản sinh lời, vậy thì khả năng sinh lời đến đâu, có hiệu quả không? Họ có các khoản phải thu là gì, khả năng thu ra sao? Tài sản đầu tư, các giấy tờ có giá, chứng khoán nắm giữ liệu độ rủi ro hay lợi nhuận sẽ như thế nào?...

“Đó là những câu hỏi đáng quan tâm hơn là tổng tài sản tăng hay giảm”, ông nói.
dịch vụ kế toán thuế trọn gói giá rẻ tại từ liêm Theo VnEconomy

[Read More...]


Chỉ với 20.000 VNĐ đã mua được doanh nghiệp



Thương vụ mua bán doanh nghiệp trị giá 20.000 đồng (tương đương 1 USD) ở Hải Phòng đang bị coi như một hiện tượng lạ.

Lạ không chỉ bởi mức giá mang tính tượng trưng của thương vụ này, mà quan trọng hơn, là lo ngại từ phía cơ quan quản lý nhà nước về trách nhiệm của họ trong trường hợp nghĩa vụ của doanh nghiệp sau khi đổi chủ với các chủ nợ của doanh nghiệp cũ không thuận chèo mát mái.

Tại Hội nghị Ngành kế hoạch và đầu tư (vừa được tổ chức hồi đầu tháng 7), ông Đan Đức Hiệp, Phó chủ tịch UBND TP. Hải Phòng đã thông tin về việc một doanh nghiệp (thành lập năm 2011) chỉ trong vòng vài tháng đã tiến hành mua lại một số doanh nghiệp với giá 20.000 đồng/thương vụ. Đa phần doanh nghiệp được mua lại có lợi thế về đất, song đang trong tình trạng nợ lớn, thậm chí, có khoản nợ lên tới cả ngàn tỷ đồng.

Điều đáng nói là, theo ông Hiệp, thông tin về khoản nợ cả ngàn tỷ đồng đó chỉ được Sở Kế hoạch và Đầu tư Hải Phòng biết khi Sở này liên hệ với phía ngân hàng để tìm hiểu thông tin, do phân vân trước hồ sơ thay đổi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của các doanh nghiệp này. “Vậy còn những nghĩa vụ khác với bạn hàng, đối tác khác thì sao?”, ông Hiệp đặt vấn đề.

Theo quy định, cơ quan đăng ký kinh doanh phải hoàn tất thủ tục thay đổi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh sau khi các bên thỏa thuận và hoàn tất các nghĩa vụ tài chính theo quy định.

Xem ra, trong trường hợp này, cơ quan quản lý bị đặt vào thế bị động do không nắm được thông tin đầy đủ về tình hình hoạt động của doanh nghiệp cho tới thời điểm tiến hành các thủ tục thay đổi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.

Trao đổi với phóng viên, Luật sư Bùi Thanh Lam (Công ty Luật Liên Á và Cộng sự) cho biết, những thương vụ “kiểu 1 USD” ở Việt Nam không phải quá hiếm. Còn nhớ, năm 2006, thương vụ mua bán doanh nghiệp với giá 1 USD được công khai đầu tiên tại Việt Nam là việc Doanh nghiệp Trẻ Đồng Nai mua lại Công ty Cheerfield Vina (100% vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, có vốn điều lệ 2 triệu USD). Khi tiếp nhận Cheerfield Vina, Doanh nghiệp Trẻ Đồng Nai phải gánh các khoản nợ lên tới 34 tỷ đồng.

Đây có thể coi là hình thức mua nợ để thâu tóm doanh nghiệp, được thực hiện giữa ngân hàng (bên bán nợ), công ty bị mua và bên đi mua. Khi bán xong nợ, ngân hàng sẽ dịch chuyển toàn bộ quyền và nghĩa vụ cho chủ nợ mới.
Học kế toán tổng hợp thực hành Tại bắc ninh
Khả năng trốn nợ hoặc không thực hiện các nghĩa vụ của doanh nghiệp sau khi bị bán được xem là không đáng ngại, vì các hợp đồng, tài liệu về mua bán nợ đều phải thể hiện được các nội dung liên quan đến việc chuyển vốn vay thành vốn chủ sở hữu và việc tham gia quản trị, điều hành của bên đi mua.

“Sau khi hoàn thành giao dịch, bên thâu tóm chuyển thành ông chủ mới của doanh nghiệp. Các bên sẽ hoàn thiện các thủ tục để tất toán hợp đồng mua bán nợ, giải chấp tài sản bảo đảm của khoản nợ (nếu có), ký kết các hợp đồng đặt mua cổ phần và hoàn thiện các thủ tục để phát hành cổ phần, đăng ký tăng vốn, công bố thông tin… theo quy định của pháp luật”, Luật sư Lam phân tích và cho rằng, lo ngại về việc doanh nghiệp lách luật, trốn khoản thuế chuyển nhượng cũng không cần đặt ra, vì đứng về phía doanh nghiệp, thương vụ này bị lỗ, nên không phát sinh thu nhập.

Như vậy, nỗi lo của vị phó chủ tịch UBND TP. Hải Phòng phần nhiều nằm ở thông tin về doanh nghiệp không đầy đủ, cập nhật. Đó là chưa kể, không ít trường hợp, cơ quan đăng ký kinh doanh chỉ biết doanh nghiệp “biến mất” khi các văn bản gửi tới địa chỉ đăng ký chính thức của doanh nghiệp bị gửi trả lại vì không có người nhận.

Trong khi đó, cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp (trên Hệ thống Thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia) được kỳ vọng sẽ giải tỏa những lo ngại liên quan đến thông tin doanh nghiệp mới hoàn tất được một phần, đó là việc cập nhật và thống nhất thông tin doanh nghiệp giữa cơ quan thuế và đăng ký kinh doanh.

Ông Lê Quang Mạnh, Cục trưởng Cục Đăng ký kinh doanh (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) - đơn vị chịu trách nhiệm vận hành hệ thống này cho biết, Hệ thống đang được hoàn tất theo hướng công khai thông tin về hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt là báo cáo tài chính doanh nghiệp, tình hình thực hiện các nghĩa vụ thuế… cũng như thông tin cảnh báo từ các cơ quan quản lý nhà nước, chủ nợ, đối tác về doanh nghiệp…

dịch vụ kế toán thuế trọn gói giá rẻ tại hai bà trưng “Khi hoàn tất, cơ quan quản lý nhà nước sẽ có đủ công cụ để thực hiện trách nhiệm của mình. Thị trường cũng sẽ có thông tin minh bạch, công khai về hoạt động của các doanh nghiệp để dẫn hướng cho các quyết định làm ăn, kinh doanh”, ông Mạnh nói và cho biết, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài chính đã thống nhất đề xuất áp dụng yêu cầu này tới tất cả các loại hình doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp nhà nước.

Được biết, tháng 10-2012, việc truy cập thông tin về doanh nghiệp trên Hệ thống Thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia sẽ triển khai thí điểm, để đến quý 1-2013, toàn bộ thông tin theo thời gian thực của hoạt động doanh nghiệp sẽ chính thức được vận hành.
dịch vụ hóa đơn điện tử tại nam định Theo Baodautu

[Read More...]


Giá điện vẫn tăng trong năm 2013



EVN tiếp tục lỗ thêm 5.297 tỷ đồng kinh doanh điện năm 2011. Giá điện chắc chắn sẽ tăng chứ không giảm. Lộ trình này sẽ được trình Thủ tướng trong tháng 12 này.

Những thông tin trên vừa được công bố tại cuộc họp báo của Bộ Công Thương chiều tối 3/12.

Tiếp tục lỗ hàng nghìn tỷ đồng

Lỗ vẫn hoàn lỗ! Những con số "âm" theo kết quả kiểm tra giá thành điện năm 2011 (dựa trên báo cáo từ phía Tập đoàn Điện lực Việt Nam - PV) vẫn cho thấy một bức tranh không sáng sủa gì của EVN so với giai đoạn 2009-2010.

Cụ thể, tổng chi phí sản xuất kinh doanh điện năm 2011 của EVN là 121.356 tỷ đồng, tương ứng với giá thành 1.282 đồng/kWh.

Trong số này, tổng chi phí khâu phát điện là 93.557 tỷ đồng (tương ứng 988 đồng/kWh); khâu truyền tải điện là 6.889 tỷ đồng (73 đồng/kWh); chi phí khâu phân phối - bán lẻ là 20.409 tỷ đồng (216 đồng/kWh); chi phí khâu phụ trợ - quản lý ngành là 502 đồng/kWh (tương đương 5đồng/kWh).

Trong khi đó, giá bán điện thương phẩm bình quân thực hiện năm 2011 lại chỉ là 1.226 đồng/kWk. Như vậy, bán mỗi kWh điện, EVN đã lỗ 56 đồng/kWh, đưa tổng số lỗ cả năm 2011 cho ngành kinh doanh chính của Tập đoàn này lên tới 5.297 tỷ đồng.


So với năm 2010, số lỗ kinh doanh điện trên đã tăng thêm gần 3.000 tỷ đồng.

Tuy nhiên, với các khoản bù từ các hoạt động có liên quan khác như bán công suất phản kháng, lãi tiền gửi, lợi nhuận từ hoạt động đầu tư vào các công ty cổ phần phát điện, thu nhập từ thanh lý, nhượng bán tài sản cố định và vật tư thu hồi, từ hoạt động cho thuê cột điện, kết quả kinh doanh chung của EVN đã giảm lỗ còn 3.181 tỷ đồng.

Điều quan trọng khác rất đáng lưu tâm là hiện, EVN vẫn còn bị treo khoản lỗ 26.733,53 tỷ đồng tiền chênh lệch tỷ giá trong năm 2010-2011. Nếu cộng với chi phí tiếp nhận lưới điện hạ áp nông thôn, tổng số lỗ của EVN là xấp xỉ 30.000 tỷ đồng.

Giá điện chắc chắn tăng

Trước kết quả này, Thứ trưởng Bộ Công Thương, ông Lê Dương Quang khẳng định: "Giá điện chắc chắn tăng chứ không giảm!".
Theo Thứ trưởng, mức giá điện hiện nay rất thấp. Chủ trương đưa giá điện tiệm cận theo cơ chế thị trường đã có từ năm 2008 nhưng thời gian qua, vì kinh tế khó khăn nên Chính phủ buộc phải kiềm giá điện, đặc biệt là năm 2011-2012.

Xác nhận điều này, ông Đặng Huy Cường, Cục trưởng Cục Điều tiết Điện lực, cơ quan chủ trì việc thẩm định giá điện đã cho hay, Bộ Công thương đang cùng Bộ Tài chính rà soát kế hoạch điều chỉnh giá điện. Dự kiến, lộ trình giá điện năm 2013-2015 sẽ được trình Thủ tướng vào tháng 12. Nếu được Thủ tướng thông qua thì lộ trình này sẽ được công bố rộng rãi.

Chia sẻ thông tin cụ thể hơn, ông Đinh Quang Tri, Phó Tổng Giám đốc EVN đã tiết lộ: "Năm 2012, nhờ vào điều kiện thủy văn tốt, thủy điện hoạt động hiệu quả nên EVN sẽ có lãi. Số lãi dự kiến là khoảng 3.500 - 4000 tỷ đồng nhưng sẽ được dùng để bù vào khoản lỗ năm trước. Tới năm 2013, EVN tiếp tục phấn đấu có lãi đề bù tiếp phần lỗ còn lại".

Chính vì vậy, dự kiến năm 2012, EVN chỉ phân bổ vào giá thành những khoản đã đến hạn trả nợ mà chưa xử lý khoản chênh lệch tỷ giá . Nếu không, giá điện giá sẽ tăng vọt.

Lần đầu tiên được góp mặt trong tổ kiểm tra giá thành điện, ông Đỗ Gia Phan - Phó Chủ tịch Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng bày tỏ: "Năm 2013 chưa nên để giá điện theo cơ chế thị trường".
Ông Phan cho biết: "Về mặt kỹ thuật, số liệu của EVN đưa ra đã được kiểm toán, chúng tôi không có ý kiến. Nhưng về giá thành, hiện nay đang bao gồm cả các chi phí liên quan đến chính sách của nhà nước như: cải tạo lưới điện nông thôn, bù giá cho vùng sâu vùng xa, bù mua điện giá cao của các nhà máy điện khí..., như vậy là không hợp lý"

dịch vụ kế toán thuế trọn gói giá rẻ tại bắc ninh " Để sòng phẳng, nên tách riêng các khoản chi do chính sách của Nhà nước trong giá điện và bù bằng nguồn khác. Dừng cộng dồn tất cả vào giá điện để mọi người dân phải gánh. Năm 2013, Chính phủ sẽ điều tiết giá điện theo cơ chế thị trường nhưng hiện chưa có thị trường phân phối điện cạnh tranh, Nhà nước vẫn phải điều tiết sẽ hợp lý hơn", ông Phan kiến nghị.

Trước đó, theo kế hoạch sản xuất kinh doanh giai đoạn 2011-2015 của EVN được Thủ tướng phê duyệt, giá điện sẽ từng bước được nâng dần theo thị trường. Năm 2012 - 2013, EVN sẽ được phân bổ vào giá điện các khoản lỗ chênh lệch tỷ giá trong sản xuất kinh doanh điện chưa tính hết vào giá điện của các năm trước.
Đặc biệt, kế hoạch này đã đặt mục tiêu, yêu cầu EVN phải có lãi trong giai đoạn này.

dịch vụ hóa đơn điện tử tại quận tân phú Ông Đinh Quang Tri, Phó Tổng Giám đốc EVN cho biết, EVN đã đạt được thỏa thuận với PetroVietnam về việc trả các khoản nợ năm 2011. Theo đó, EVN được 'khoanh' nợ, chuyển từ nợ tiền điện sang nợ trả dần. Tuy nhiên, tiến độ trả nợ cho EVN sẽ phụ thuộc vào tình hình tài chính của EVN. Dự kiến, EVN sẽ phát hành 9.000 tỷ đồng trái phiếu để trả nợ.

Tổ công tác kiểm tra giá thành sản xuất kinh doanh điện bao gồm đại diện Bộ Công thương, Bộ Tài chính, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng. Việc kiểm tra được thực hiện trong 2 tháng 9- 10/2012 tại EVN và một số đơn vị thành viên dựa trên các báo cáo của EVN và kết quả kiểm toán do Công ty TNHH Deloitte Việt Nam kiểm toán độc lập. Bộ Công Thương cho biết, EVN chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của số liệu báo cáo này
Học kế toán tổng hợp thực hành Tại hải phòng Theo Vef

[Read More...]


Xuất siêu 484 triệu USD trong 11 tháng



Số liệu chính thức vừa được Tổng cục Hải quan công bố, 11 tháng đầu năm, Việt Nam vẫn xuất siêu 484 triệu USD. Con số này lớn hơn rất nhiều so với mức cân bằng cán cân thương mại trong 11 tháng mà Tổng cục Thống kê ước tính trước đó.

Với diễn diễn này, nhiều khả năng, năm nay sẽ không có hiện tượng nhập siêu. Theo dự báo của Bộ Công thương trước đó, năm 2012, Việt Nam sẽ xuất khẩu khoảng 114,5 tỷ USD, nhập khẩu 115 tỷ USD, nhập siêu 500 triệu USD.

Trong khi đó, thực tế, 11 tháng, tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước đạt 104,23 tỷ USD, tăng 18,7% so với cùng kỳ. Còn nhập khẩu là 103,75 tỷ USD, tăng 6,5%. Trong khi xuất khẩu tăng, thì nhập khẩu lại giảm so với ước tính của Tổng cục Thống kê, và đó là lý do vì sao, sau 11 tháng, xuất siêu lại lớn như vậy.

công ty dịch vụ kế toán giá rẻ tại hải dương Trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam 11 tháng qua, ngoài dệt may vẫn giữ vị trí quán quân, với 13,73 tỷ USD, thì điện thoại di động và linh kiện tiếp tục có tốc độ tăng trưởng chóng mặt.

11 tháng, nhóm hàng này đã đem về kim ngạch 11,34 tỷ USD, tăng gấp đôi so với cùng kỳ năm 2011.

Học kế toán tổng hợp thực hành Tại thủ đức Nhóm hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện cũng đạt tốc độ tăng trưởng ấn tượng, với 6,98 tỷ USD, tăng 69% so với cùng kỳ.

Trong khi đó, với các mặt hàng nhập khẩu, nhóm hàng ô tô giảm rất mạnh, với 24,4 nghìn chiếc, giảm 52,1% so với cùng kỳ năm trước.

Nhập khẩu máy móc, thiết bị, phụ tùng là 14,68 tỷ USD, tăng 3,7% so với cùng kỳ.
dịch vụ hóa đơn điện tử tại Quận Hà Đông Theo Baodautu

[Read More...]


TRUNG TÂM KẾ TOÁN HÀ NỘI

Return to top of page