EVN lãi lớn nhờ thủy điện



Kinh tế khó khăn, doanh nghiệp suy giảm sản xuất, trong khi hệ thống điện được bổ sung lớn nguồn từ thủy điện đã giúp Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) lại thắng lớn trong năm 2012.

Trả lời câu hỏi của phóng viên Báo Đầu tư về ước tính cơ cấu nguồn phát thực tế của năm 2012 ở thời điểm chỉ còn vài ngày nữa là kết thúc năm, ông Đinh Quang Tri, Phó tổng giám đốc EVN cho biết, cả hệ thống năm 2012 sản xuất được 117 tỷ kWh điện. Trong đó, sự đóng góp của thủy điện là 53 tỷ kWh; nhiệt điện than 21,2 tỷ kWh; tua-bin khí là 40,2 tỷ kWh, nhiệt điện dầu là 0,159 tỷ kWh (trong đó chạy dầu FO là 0,079 tỷ kWh) và nhập khẩu là 2,7 tỷ kWh.

Trong khi đó, theo kế hoạch cung cấp điện và vận hành hệ thống điện năm 2012 tại Văn bản số 6785/QĐ-BCT ngày 23/12/2011 do Bộ Công thương ban hành, tổng sản lượng điện của các nhà máy điện và nhập khẩu của toàn quốc năm 2012 là 120,795 tỷ kWh, tăng 10,89% so với năm 2011. Cụ thể, sản lượng thủy điện là 45,029 tỷ kWh; sản lượng nhiệt điện than là 24,78 tỷ kWh; sản lượng nhiệt điện tua-bin khí là 45,744 tỷ kWh; sản lượng nhiệt điện dầu cả là 0,506 tỷ kWh, trong đó dầu FO là 0,271 tỷ kWh và sản lượng điện nhập khẩu là 4,65 tỷ kWh.

Rõ ràng, có sự chênh lệch rất lớn giữa thực tế với kế hoạch cung cấp điện và vận hành hệ thống điện năm 2012. Đáng chú ý là, nguồn phát từ thủy điện với giá thành thấp nhất trong các loại nguồn điện có sự tăng trưởng mạnh, tới gần 8 tỷ kWh. Sự tăng trưởng về nguồn phát thủy điện của năm 2012 chủ yếu đến từ Nhà máy Thủy điện Sơn La, công suất 2.400 MW, có sản lượng điện hàng năm khoảng 10 tỷ kWh, vừa khánh thành cuối tuần qua, về đích sớm 3 năm so với Nghị quyết của Quốc hội.

Học kế toán tổng hợp thực hành Tại thủ đức Thực tế, cơ cấu nguồn điện, giá nhiên liệu, tỷ giá là 3 thông số đầu vào tác động trực tiếp tới chi phí phát điện mà đơn vị phát điện không có khả năng kiểm soát theo Quyết định 24/2011/QĐ-TTg. Vấn đề là, trong khi biến động của giá nhiên liệu và tỷ giá có thể dễ dàng nhận thấy do phụ thuộc vào giá xăng dầu thế giới, giá than do Bộ Tài chính điều hành hay công bố của Ngân hàng Nhà nước, thì việc vận hành cơ cấu nguồn điện thực tế lại phụ thuộc không nhỏ vào “độ khéo của con người”, bởi hệ thống điện của Việt Nam có sự tham gia lớn của nguồn thủy điện phụ thuộc nhiều vào mưa lũ.

Song song với phát tăng thủy điện giá thành rẻ, còn là sự giảm đáng kể huy động của các nguồn điện khác là nhiệt điện khí, nhiệt điện than, nhiệt điện dầu và đặc biệt là các nhà máy điện chạy dầu FO.

Nếu theo cách lý giải của ông Tri về giá thành điện năm 2011 của các nhà máy thủy điện đa mục tiêu do EVN quản lý là thấp nhất, bình quân chỉ 507 đồng/kWh, trong khi các nhà máy nhiệt điện chạy khí có giá 1.037 đồng/kWh, nhiệt điện chạy dầu lên tới 4.692 đồng/kWh, thì việc ưu tiên tối đa phát điện từ các nhà máy thủy điện cũng là điều dễ hiểu với một doanh nghiệp như EVN.
dịch vụ kế toán thuế trọn gói giá rẻ tại thanh trì
Như vậy, cùng với thực tế kinh tế khó khăn, khiến nhu cầu tiêu dùng điện của cả nước không như dự báo từ đầu năm và việc vận hành hệ thống điện khéo léo, thì con số lãi năm 2012 của EVN chắc chắn không dừng lại ở mức 3.500-4.000 tỷ đồng như công bố.
Đáng nói là, không phải tới năm 2012, câu chuyện EVN ưu tiên thủy điện và thu được lãi lớn nhờ thủy điện mới diễn ra. Cũng với việc huy động thực tế nguồn thủy điện vượt xa kế hoạch, trong khi các nguồn nhiệt điện than, nhiệt điện khí, nhiệt điện dầu đều giảm mạnh, năm 2011, EVN đã thu được hiệu quả rất lớn. Cụ thể, số lỗ theo công bố của EVN chỉ còn 5.297 tỷ đồng, thay vì ước tính lên tới 11.000 tỷ đồng so với kế hoạch khi tính toán phương án nguồn điện của năm 2011.
dịch vụ hóa đơn điện tử tại Quận Ba Đình Theo Baodautu

[Read More...]


Tung khuyến mại "khủng" để kích dòng tiền



Sau quyết định hạ trần lãi suất huy động tiền gửi ngắn hạn về 8%/năm của Ngân hàng Nhà nước, mặt bằng lãi suất của các ngân hàng về cơ bản ngang nhau. Tuy nhiên, dòng tiền gửi của khách hàng thì đã có sự dịch chuyển dần về các ngân hàng lớn. Để thu hút người gửi tiền, một số ngân hàng thương mại cổ phần đã mạnh tay tung khuyến mại.

Bên cạnh đó, để kích thích dòng tiền cuối năm, một số ngân hàng đang dư tiền lại đưa ra các chương trình giảm lãi suất cho vay tiêu dùng.

Tung khuyến mại “khủng”

Hiện nay, áp lực huy động tiền gửi luôn gia tăng ở thời điểm gần giáp Tết nguyên đán, bởi đây là thời điểm chi tiêu cao nhất của khách hàng gửi và vay vốn. Vì thế, việc thu hút nguồn tiền nhàn rỗi thời điểm này là mục tiêu của phần lớn ngân hàng.

Mặc dù không tăng lãi suất, nhưng để giữ chân khách và thu hút thêm lượng tiền gửi mới trong thời điểm hiện nay, nhiều ngân hàng đua nhau tung ra các chương trình rút thăm quay thưởng với giá trị lên đến hàng tỷ đồng.

Dạo qua một loạt các chi nhánh ngân hàng trên phố Nguyễn Văn Cừ, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, nhiều ngân hàng treo băng rôn tại các điểm giao dịch như “Xuân phát lộc Vàng”, “Tiết kiệm Tài lộc - Tết sum vầy”, “Du xuân đón Lộc”… để thu hút khách hàng.

Ngân hàng Tiên Phong (TienPhong Bank) vừa triển khai chương trình khuyến mại “Du xuân đón Lộc”. Theo đó, khách hàng gửi tiết kiệm, hay sử dụng gói tài khoản sẽ có cơ hội nhận ngay nhiều phần quà hấp dẫn, đồng thời được cấp mã dự thưởng để quay số trúng thưởng tại chỗ và cuối kỳ, tổng giá trị giải thưởng lên tới 11 tỷ đồng với 30.000 giải thưởng.

Cùng hình thức khuyến mại, Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank) cũng triển khai chương trình khuyến mại “Tiết kiệm Tài lộc - Tết sum vầy” dành cho tất cả các khách hàng gửi tiết kiệm bằng VND/USD/EUR với tổng giá trị giải thưởng lên tới gần 6,8 tỷ đồng. Ngoài ra, VPBank còn triển khai chương trình “Lì xì may mắn” trong 3 ngày làm việc đầu tiên của VPBank trong năm mới Quý Tỵ.

Tương tự, khách hàng gửi tiền tại Sacombank, Techcombank, ACB, Eximbank Trustbank, OCB chỉ cần 10 triệu đồng trở lên cũng đã được nhận phiếu bốc thăm may mắn có cơ hội trúng thưởng lên tới tiền tỷ. Nhiều nhà băng khác như cũng rầm rộ công bố những chương trình quay thưởng tương tự để thu hút khách gửi tiền.

Ở nhiều ngân hàng khác, dù rằng không có chủ trương về khuyến mại rầm rộ, nhưng khách hàng đến gửi tiền nhiều cũng được tặng quà tăng, nhỏ thì cốc, đĩa thủy tinh, nước xả vài, áo mưa, lớn hơn thì bộ bát sứ, mũ bảo hiểm, thẻ mua hàng…tùy thuộc số tiền gửi là bao nhiêu, kỳ hạn ngắn hay dài.

Đại diện Ngân hàng Phương Đông cho rằng, tuy hiện nay nguồn vốn huy động vẫn khá ổn, nhưng nếu xét trên tổng lượng tiền huy động với tổng dư nợ thì dư nợ toàn ngành hiện vẫn chiếm tỷ trọng cao. Nguyên nhân là thời gian trước đây các ngân hàng đẩy mạnh cho vay, trong khi nguồn vốn huy động không tăng tương xứng.

Vì thế, theo ông đây là thời điểm các ngân hàng phải cân đối nguồn vốn. Hơn nữa, thời điểm này là khoảng thời gian nhiều khách hàng cần rút tiền để chi tiêu mua sắm Tết Nguyên đán, nên các ngân hàng phải tìm cách giữ chân khách hoặc thu hút thêm người gửi mới để đảm bảo thanh khoản tốt hơn.

Bên cạnh những ngân hàng đưa ra các chương trình khuyến mại là quà tặng và bốc thăm trúng thưởng thì vẫn có những ngân hàng mặc cả lãi suất với khách hàng. Chị Nguyễn Kim Thanh ở quận Long Biên cho biết, mới đây chị gửi 300 triệu đồng tại một ngân hàng trên phố Nguyễn Văn Cừ được hưởng lãi suất 11%. Theo chị Thanh, hiện đã bão hòa các chương trình dự thưởng, tặng quà nên người dân quan tâm nhiều hơn đến lãi suất thực của tiền gửi.

Lãi suất tiếp tục giảm

Bên cạnh một loạt ngân hàng tung khuyến mại để hút tiền, thì một số ngân hàng khác lại đẩy mạnh “đầu ra” bằng các chương trình giảm lãi suất cho vay tiêu dùng.

Mới đây, Ngân hàng Công thương Việt Nam (VietinBank) đã dành 2.000 tỷ trong chương trình “Vui tiêu dùng cùng VietinBank” cho khách hàng cá nhân vay tiêu dùng với lãi suất hấp dẫn, chỉ từ 10%/năm, thời hạn ưu đãi lãi suất lên đến 3 tháng. Kéo dài đến hết tháng 6/2013, chương trình áp dụng cho khách hàng cá nhân và hộ gia đình đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định hiện hành của VietinBank, có nhu cầu vay tiêu dùng như mua nhà ở/nhận quyền sử dụng đất ở, xây dựng/sửa chữa nhà ở, mua ôtô…

Ngân hàng Quốc tế (VIB) cũng vừa áp chính sách giảm mạnh lãi suất cho khách hàng cá nhân vay mua ôtô. Theo đó, khách hàng cá nhân vay vốn để mua ôtô tại VIB, sẽ được giảm lãi suất đến 3%/năm trong 6 tháng đầu so với lãi vay thông thường. Từ tháng thứ 7 của khoản vay, ngân hàng này sẽ áp lãi suất theo mức hiện hành tại thời điểm tương ứng, với cam kết duy trì mức cạnh tranh và minh bạch cho khách hàng.

dịch vụ kế toán thuế trọn gói giá rẻ tại tphcm Ông Nguyễn Đức Hưởng, Phó Chủ tịch thường trực Ngân hàng Bưu điện Liên Việt (LienVietPostBank) cho rằng, mặt bằng lãi suất có thể giảm tiếp nếu nền kinh tế vẫn như hiện nay tuy nhiên việc hạ lãi suất không dễ khi Ngân hàng Nhà nước phải giữ lạm phát ổn định.

“Trước mắt, trong điều kiện chưa hạ lãi suất đồng đều thì các ngân hàng vẫn nên dành vốn cho những khách hàng tốt. Đơn cử như tại LienVietPostBank, hiện nay chúng tôi vẫn đang ưu tiên cho vay lãi suất thấp để thu hút khách hàng tốt. Bởi chúng tôi biết khách hàng tốt thường yêu cầu lãi suất phải thấp thì họ mới vay,” ông Hưởng nhấn mạnh.

dịch vụ hóa đơn điện tử tại quận thanh xuân Còn ông Vũ Viết Ngoạn, Chủ tịch Ủy bán Giám sát tài chính Quốc gia, thì cho rằng Thủ tướng đã chỉ đạo đưa lạm phát thấp hơn năm trước là khoảng 6%. Nếu lạm phát kiểm soát ở mức đó, thì mới tiếp tục giảm lãi suất được. Lãi suất huy động đưa xuống thì lãi suất cho vay mới giảm được. Giảm lãi suất là giúp giảm chi phí cho doanh nghiệp, mà hỗ trợ doanh nghiệp là góp phần kích cầu.

“Tôi hy vọng sẽ kiểm soát lạm phát thì chúng ta sẽ giảm được lãi suất,” ông Ngoạn chia sẻ./.
Học kế toán tổng hợp thực hành Tại quảng ninh Theo vietnamplus

[Read More...]


Khả năng hấp thụ tín dụng và chỉ tiêu



Băn khoăn của các chuyên gia và doanh nghiệp (DN) về chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2012 không chỉ còn là con số nằm ở mức nào mà là DN có tiếp cận và hấp thu được dòng vốn tín dụng đó hay không.

Quyền quay trở lại với vốn ngân hàng

Theo Ngân hàng Nhà nước (NHNN), mặc dù tăng trưởng tín dụng 2012 đạt mức thấp kỷ lục trong mấy năm gần đây nhưng cơ cấu tín dụng đã có sự chuyển dịch tích cực, tỷ trọng dư nợ cho vay các khu vực xuất khẩu, nông nghiệp – nông thôn cao hơn tỷ trọng chung và tỷ trọng dư nợ cho vay các lĩnh vực không khuyến khích giảm xuống nhiều so với năm 2011. Điều đáng nói nhưng lại ít được NHNN lưu ý là năm 2012, để có tăng trưởng tín dụng 8,91%, thì đóng góp của các nhà băng trong việc dồn vốn tín dụng cho kênh trái phiếu Chính phủ là khá lớn. Vì đây là năm đầu tiên trái phiếu Chính phủ được tính vào tăng trưởng tín dụng.

Đầu năm 2013, tăng trưởng tín dụng của hệ thống ước đến trung tuần tháng 2/2013, tiếp tục lặp lại kịch bản âm đã diễn ra như đầu năm cũ. Mức âm ít hơn, chỉ 0,16% so với 1% của tháng 1/2013 và thấp hơn nhiều so với mức âm khoảng 3% của cùng kỳ năm trước so với cuối năm 2011. Dù vậy, đây vẫn là một tín hiệu rất đáng lưu tâm bởi sau một năm khó khăn của nền kinh tế, theo nhiều DN, sự phân hóa của DN trên thị trường nói chung đã quá rõ ràng.

TS Lê Xuân Nghĩa, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính quốc gia nói với DĐDN, nếu xét về khía cạnh tiếp cận tín dụng thì ngay cả những nỗ lực hạ lãi suất của NHNN tính đến cuối năm 2012, cũng chỉ có thể có thể mang đến lợi ích cho những DN nào đang làm ăn tốt, có khả năng sinh lời, có đơn hàng đảm bảo, có các thị trường xuất khẩu, tiêu thụ hàng hóa vững… Đây được kỳ vọng là những DN trụ cột của nền kinh tế hiện nay, trọng tâm của chính sách vĩ mô để khơi phục thị trường, là những DN đang làm ăn tốt như vừa đề cập (?). Còn những DN nào đang có nợ xấu thì chỉ có thể trông chừng vào vốn tự có. Khi đó, lãi suất đối với DN không còn là vấn đề mà là làm thế nào để được quyền quay trở lại với vốn ngân hàng. Muốn làm như vậy, họ phải trông chờ vào kết quả xử lý nợ xấu. Khi xử lý được và DN không còn nợ ngân hàng thì mới quay trở lại được với vốn ngân hàng.

Tin vui nóng sốt tại thời điểm hiện nay đối với các DN là Chính phủ đã quyết tâm ra mắt công ty Quản lý tài sản Quốc gia trong quý I/2013, theo Thông báo số 79/TB-VPCP ngày 22/2/2013. Dù chưa biết điều lệ và cách thức hoạt động của công ty này ra sao nhưng đây cũng là tín hiệu cho thấy nỗ lực nhằm giải quyết nợ xấu trong hệ thống và hơi thông điểm nghẽn vốn của Chính phủ trong năm nay, và DN qua đó sẽ có cơ hội được “cấp quyền” trở lại với vốn tín dụng.

Dẫu vậy, bên cạnh vướng mắc nợ xấu ngáng trở quyền được quay trở lại với vốn tín dụng, theo ông Phạm Ngọc Hưng - Phó Chủ tịch Hiệp hội DN TP. Hồ Chí Minh, còn một nút thắt khác khiến “điểm nghẽn” vốn khó khơi không, đó là chính sách tín dụng của hệ thống ngân hàng hiện vẫn là ưu tiên DN lớn, DN Nhà nước, DN có tài sản thế chấp để đảm bảo vay vốn… mà rất ít có sự quan tâm đến các DN nhỏ và vừa (DNNVV). “Hầu hết các DN đóng cửa, phá sản, giải thể trong năm qua vẫn là DNNVV”, ông Hưng nói.

Cũng theo ông Hưng, điều rất dễ hiểu khi các DNNVV dễ đối diện với nguy cơ “tan nát” là hầu hết các DN đều ít có tài sản có giá trị thế chấp như bất động sản, nhà xưởng quy mô lớn, máy móc công nghệ cao….; những gì có được thì họ đã thế chấp, đã dùng để đảm bảo các khoản vay từ trước nên nay để đáp ứng điều kiện tiếp cận tín dụng của các nhà băng, sẽ là “điệp vụ bất khả thi” đối với họ.

Gió sẽ đổi chiều?

Như vậy, vấn đề đặt ra không còn là tăng trưởng tín dụng được khống chế ở mức nào nữa, hay tới đây việc tăng trưởng tín dụng có tiếp tục ấn định cho từng nhóm ngân hàng như NHNN đã thực thi trong năm 2012. Bởi nói như ông Lê Quang Trung - Quyền Tổng giám đốc ngân hàng VIB, dù có đặt chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng 12% đi nữa, thì với tình hình kinh tế và với khả năng cho vay ra rất khó khăn của các ngân hàng như hiện nay, cũng rất khó để đạt được chỉ tiêu đề ra. Nói cách khác, chỉ tiêu sẽ gần như không còn ý nghĩa, quy mô tín dụng sẽ không còn ý nghĩa nếu quy mô đó không mang đến tăng trưởng về chất của đồng vốn và đóng góp thực sự vào tăng trưởng GDP.

Đứng ở góc độ DN, nếu xét việc hoàn thành chỉ tiêu đó sẽ bao gồm việc dòng vốn vẫn chảy mạnh vào trái phiếu Chính phủ và chảy nhỏ giọt ra tín dụng DN (như năm 2012); thì chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng mà NHNN đề ra chẳng khác nào “cột mỡ” để DN ngước nhìn. Còn đứng ở góc độ ngân hàng, nếu xét việc hoàn thành chỉ tiêu đó theo cách thức “nhất định phải đạt chỉ tiêu”, một sự “cào bằng” ngần đó ngân hàng có quy mô tổng tài sản, hệ thống khách hàng và thị phần khác nhau, trước sau gì cũng vẫn dẫn đến hình thức “tạo cửa” cho hiện tượng các ngân hàng phải xin “nới” thêm “chiếc áo chật” (lại cũng như năm 2012), dù chiếc áo có thể chưa hẳn đã thực chật đối với một số ngân hàng còn phấp phỏng thanh khoản, thiếu hệ thống khách hàng vững chãi mà vẫn xin chỉ tiêu tín dụng “làm của để dành”.

Học kế toán tổng hợp thực hành Tại hải phòng Thực tế, trao đổi với phóng viên, một số nhà băng vẫn tỏ ra lo lắng về hoạt động cho vay ngày càng khó khăn hiện nay. “Theo quan sát của chúng tôi, năm 2013, trọng tâm của các cơ quan quản lý có lẽ không chỉ nợ xấu mà còn là giải cứu thị trường bất động sản, khuyến khích các khoản cho vay mua nhà theo định hướng. Trong khi đó, đối với một số ngân hàng như chúng tôi, năm 2012, chúng tôi đã phải tạm “đóng cửa” mục cho vay này. Nói thật, nhiều ngân hàng dù vẫn “giăng cờ, biểu ngữ” hô hào về các nghiệp vụ cho vay mua nhà và tiêu dùng lãi suất thấp, nhưng đã đóng cửa mục cho vay này trên thực tế, trừ phi họ có ký kết hỗ trợ vốn theo dự án. Các ngân hàng hiện rất e ngại rủi ro và trích lập nợ phòng cho vay bất động sản. Tất nhiên, nói đi cũng phải nói lại, một khi NHNN đã có định hướng không hạn chế tỷ trọng cho vay lĩnh vực phi sản xuất, rất có thể sự e ngại trước đây của các nhà băng sẽ… đổi chiều”, Tổng Giám đốc một ngân hàng chuyên cho vay khách hàng tổ chức, nói.

dịch vụ kế toán thuế trọn gói giá rẻ tại hải phòng Có thể nói, thị trường vốn mới chỉ khai màn chưa đầy 2 tháng đầu năm, thời điểm mà các DN nếu có nhu cầu vay tín dụng, thì chủ yếu là xoay vốn trả lương, thưởng hay đảo nợ các khoản nợ cũ. Các DN sẽ chỉ thực sự tăng tốc vay vốn bắt đầu từ cuối quý I và do đó, mức âm tăng trưởng tín dụng của 2 tháng đầu năm chưa thực sự nói lên điều gì. Bên cạnh những kịch bản dự đoán cho rằng có thể tăng trưởng tín dụng sẽ lặp lại của năm 2012, hoặc “khá hơn một chút” – đạt chỉ tiêu, nhiều chuyên gia bắt đầu đặt vấn đề về một kịch bản thứ 3: Có hay không khả năng tăng trưởng tín dụng sẽ tăng vọt với tỷ trọng cho vay các lĩnh vực phi sản xuất – điều mà hệ thống ngân hàng luôn thực thi “ngoạn mục” trong các năm trước đây?
dịch vụ hóa đơn điện tử tại Quận Hoàn Kiếm Theo tapchitaichinh

[Read More...]


Hỗ trợ nông nghiệp phát thải khí các bon thấp



Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) Nguyễn Văn Bình và ông Tomoyuki Kimura-Giám đốc Quốc gia của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) tại Việt Nam đã ký kết Hiệp định vay, Hiệp định dự án của khoản vay “Hỗ trợ nông nghiệp phát thải khí các bon thấp” và khoản vay dự án “Quỹ hỗ trợ chuẩn bị khởi động dự án” với tổng giá trị 111,88 triệu USD vào ngày 7-3 tại Hà Nội.

Theo hiệp định đã ký, dự án “Hỗ trợ nông nghiệp phát thải khí các bon thấp” trị giá 74 triệu USD từ Quỹ Phát triển Châu Á của ADB (ADF). Mục tiêu của dự án nhằm xây dựng một nền sản xuất nông nghiệp bền vững, hiệu quả và thân thiện với môi trường thông qua việc xúc tiến xây dựng/nhân rộng các mô hình nghiên cứu và chuyển giao các ứng dụng quản lý chất thải nông nghiệp hướng tới giảm thiểu phát thải khí nhà kính và ứng phó/giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu, sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, phế phụ phẩm trong nông nghiệp, quản lý hiệu quả các hoạt động chế biến, bảo quản sau thu hoạch nông sản.
dịch vụ hóa đơn điện tử tại quận thủ đức
Dự án này được chia làm 4 hợp phần bao gồm: Quản lý chất thải chăn nuôi; tín dụng cho chuỗi giá trị khí sinh học; tăng cường chuyển giao công nghệ sản xuất nông nghiệp các bon thấp; quản lý dự án.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn là cơ quan chủ quản, chịu trách nhiệm tổng thể về các hoạt động của dự án và được triển khai tại 10 tỉnh bao gồm: Lào Cai, Sơn La, Phú Thọ, Bắc Giang, Nam Định, Hà Tĩnh, Bình Định,Tiền Giang, Bến Tre và Sóc Trăng.

dịch vụ kế toán thuế trọn gói giá rẻ tại hai bà trưng Đối với dự án “Quỹ hỗ trợ chuẩn bị và khởi động dự án”, ADB sẽ tài trợ 37,88 triệu USD từ nguồn vốn vay ưu đãi ADF. Dự án này nhằm mục tiêu nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn hỗ trợ ODA ở Việt Nam, cụ thể là đảm bảo hỗ trợ đầy đủ việc chuẩn bị và khởi động dự án thông qua thực hiện các hành động trước và các tài liệu chuẩn bị dự án có chất lượng, tiếp cận với nguồn vốn của Quỹ, hỗ trợ thực hiện dự án. Bên cạnh đó, dự án cũng hỗ trợ nâng cao năng lực cho cơ quan chủ quản và cơ quan thực hiện dự án để xác định, chuẩn bị và thẩm định dự án đầu tư công tốt hơn. Khoản vay của dự án này tập trung tài trợ cho 2 hợp phần gồm: Xây dựng năng lực và hỗ trợ quản lý thực hiện dự án; quỹ hỗ trợ chuẩn bị và khởi động dự án.

Cơ quan chủ quản dự án là Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Cơ quan thực hiện dự án là Vụ Kinh tế Đối ngoại thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Học kế toán tổng hợp thực hành Tại bắc ninh Theo hanoimoi

[Read More...]


Đính chính số liệu về tín dụng của NHNN



Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vừa có thông tin đính chính về một vài số liệu của các tổ chức tín dụng được công bố trong tháng 1 vừa qua.

Theo NHNN, thực hiện quy định về việc công bố và cung cấp thông tin của NHNN theo Thông tư số 35/2011/TT-NHNN và căn cứ vào số liệu báo cáo của các tổ chức tín dụng (TCTD), NHNN đã công bố thông tin thống kê về một số chỉ tiêu cơ bản của các TCTD tháng 1-2013.

Tuy nhiên, do một số TCTD cung cấp thông tin không chính xác, sau khi rà soát lại, NHNN đã công bố lại thông tin thống kê một số chỉ tiêu cơ bản của các TCTD đến 31-1-2013.

Cụ thể, tổng vốn tự có mới của nhóm các ngân hàng thương mại cổ phần là 166.794 tỷ đồng so với con số công bố cũ là 151.337, kéo theo tốc độ tăng trưởng của nhóm ngân hàng này chỉ là -8,93% thay vì con số hơn gấp đôi của số liệu cũ là -17,37%.

Cũng là số liệu trong nhóm ngân hàng này, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) mới công bố là 13,19% thay vì 11,63% theo số liệu cũ. Như vậy, dù vốn điều lệ hay tốc độ tăng trưởng của nhóm ngân hàng thương mại cổ phần có thấp hơn nhóm ngân hàng thương mại Nhà nước nhưng xét về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, nhóm ngân hàng cổ phần vẫn có độ an toàn trong hoạt động tốt hơn.

Học kế toán tổng hợp thực hành Tại biên hòa Hơn nữa xét theo số liệu mới công bố, tỷ lệ này của nhóm ngân hàng cổ phần còn gần tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của toàn hệ thống hơn là nhóm ngân hàng Nhà nước. Cụ thể, CAR của nhóm ngân hàng Nhà nước là 10,41% và CAR của toàn hệ thống là 13,63%.

Cũng theo bảng số liệu mới công bố của NHNN, tốc độ tăng trưởng của toàn hệ thống ngân hàng hiện là -3,79% giảm mạnh so với con số -7,53% của số liệu công bố trước đây. Điều này là do số vốn tự có mới công bố của toàn hệ thống đã lên 408.645 tỷ đồng trong khi số vốn tự có cũ là 393.898 tỷ đồng.

Cụ thể số liệu từng nhóm ngân hàng được NHNN công bố mới như sau:

Đơn vị: tỷ đồng, %

 Loại hình TCTD Vốn tự có (công bố mới) Vốn tự có (đã công bố cũ)
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu
(công bố mới)
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (công bố cũ)
  Số tuyệt đối Tốc độ tăng trưởng Số tuyệt đối Tốc độ tăng trưởng
 1 4 5 4 5 10 10
 NHTM Nhà nước 134,804 -1.80 134,804 -1.80 10.41 10.41
 NHTM Cổ phần 166,794 -8.93 151,337 -17.37 13.19 11.63
dịch vụ kế toán thuế trọn gói giá rẻ tại từ liêm  NH Liên doanh, nước ngoài 94,598 2.21 94,598 2.21 28.60 28.60
 Công ty tài chính, cho thuê 10,216 7.35 10,925 1.47 8.67 9.20
 QTD TW 2,234 -0.89 2,234 -0.89 38.67 38.67
 Toàn hệ thống 408,645 -3.79 393,898 -7.53 13.63 12.91
dịch vụ hóa đơn điện tử tại hà nam

Theo baohaiquan

[Read More...]


Thực trạng và giải pháp hỗ trợ năm 2013 cho doanh nghiệp nhỏ và vừa



Việc gia hạn, miễn, giảm thuế là hình thức hỗ trợ nguồn lực tài chính giúp doanh nghiệp giảm chi phí vay vốn, hỗ trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong bối cảnh khó khăn hiện nay. Điều này đồng nghĩa với việc thúc đẩy các doanh nghiệp hồi sinh phát triển, mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng doanh thu, lợi nhuận và nuôi dưỡng nguồn thu…

Thực trạng hoạt động của DNNVV

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tính đến ngày 30/11/2012, cả nước có 48.473 doanh nghiệp (DN) giải thể, tạm dừng hoạt động, trong đó 39.936 DN dừng hoạt động và 8.537 DN đã giải thể. Dự báo đến hết ngày 31/12/2012, con số DN giải thể, tạm ngừng hoạt động trên cả nước trong năm 2012 khoảng 55.000 DN. Trong khi đó, số lượng DN đăng ký thành lập mới của cả nước vẫn tiếp tục xu hướng giảm từ đầu năm, đến tháng 11/2012 là 62.794 DN, giảm 10% về số DN và giảm 8,4% về vốn đăng ký. Đây là năm thứ hai liên tiếp kể từ khi Luật Doanh nghiệp năm 1999 có hiệu lực, số lượng DN thành lập mới có sự giảm sút so với cùng kỳ năm trước.

Trong cộng đồng DN Việt Nam thì doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) là loại hình DN chiếm đa số và chủ yếu trong nền kinh tế. Theo đó, loại hình DN này đóng vai trò quan trọng nhất là tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, giúp huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển, xóa đói giảm nghèo… Cụ thể, về lao động, hàng năm tạo thêm trên nửa triệu lao động mới; Sử dụng tới 51% lao động xã hội và đóng góp hơn 40% GDP…

Số tiền thuế và phí mà các DNNVV tư nhân đã nộp cho nhà nước đã tăng 18,4 lần sau 10 năm. Sự đóng góp đã hỗ trợ lớn cho việc chi tiêu vào các công tác xã hội và các chương trình phát triển khác. Do vậy đã tạo tạo ra 40% cơ hội cho dân cư tham gia đầu tư, có hiệu quả nhất trong việc huy động các khoản tiền đang phân tán, nằm trong dân cư để hình thành các khoản vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được nêu trên, khối DNNVV còn tồn tại một số hạn chế cố hữu sau:

- Về tiếp cận các chính sách, chương trình ưu đãi của Chính phủ: Các DNNVV còn chưa tiếp cận được hiệu quả. Tỷ lệ DNNVV tham gia vào các chương trình hỗ trợ của Chính phủ như: Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia, Quỹ đổi mới Khoa học công nghệ… còn rất khiêm tốn (dưới 10%). Do các DNNVV hoặc là có nguồn lực hạn chế, hoặc chưa chuẩn bị để tiếp cận các nguồn lực phân bổ bởi Chính phủ để phát triển các ngành, nghề và lĩnh vực ưu tiên. Việc tiếp cận hạn chế này còn bắt nguồn từ nguyên nhân thiếu thông tin, hoặc thủ tục quá phức tạp.

- Về tiếp cận vốn vay: Chính phủ đã triển khai các chính sách, chương trình hỗ trợ vốn cho các DNNVV như bảo lãnh tín dụng và hỗ trợ tín dụng. Tuy nhiên, trên thực tế mới có một số lượng nhỏ các DN đã được thụ hưởng chính sách hỗ trợ này. Qua khảo sát của Viện Phát triển DN (Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam) cho thấy, 55% trở ngại do thủ tục vay (hồ sơ vay vốn phức tạp, không đủ thủ tục vay vốn đơn giản cho các DNNVV); 50% trở ngại yêu cầu thế chấp (thiếu tài sản có giá trị cao để thế chấp, ngân hàng không đa dạng hóa tài sản thế chấp như hàng trong kho, các khoản thu…); 80% tỷ lệ lãi suất chưa phù hợp; Các điều kiện vay vốn hiện nay chưa phù hợp với DNNVV.

- Về mặt bằng sản xuất: Rất khó tiếp cận; Hồ sơ quá phức tạp; Thiếu thông tin; Chi phí không chính thức lớn…

- Nằm ngoài chuỗi cung ứng: DNNVV được kỳ vọng là có thể đóng góp vào sự phát triển của các ngành công nghiệp hỗ trợ, hoặc đóng vai trò là nhà cung ứng dịch vụ, sản phẩm đầu vào cho các DN nước ngoài hoặc các dự án lớn của nhà nước. Quá trình này sẽ thúc đẩy cho các DNNVV trở thành trụ cột để phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ. Hiện nay, đa số DNNVV chưa tham gia vào được chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu.

Mục tiêu phát triển DNNVV giai đoạn 2011- 2015 là thành lập mới 350.000 DN và phấn đấu đến ngày 31/12/2015, cả nước sẽ có khoảng 600.000 DN. Trong đó, tỷ trọng xuất khẩu của khu vực DNNVV chiếm 25% tổng kim ngạch xuất toàn quốc; đầu tư của khu vực này chiếm khoảng 35% tổng vốn đầu tư toàn xã hội; đóng góp 40% GDP; 30% tổng thu NSNN; tạo thêm 3,5 - 4 triệu việc làm mới trong giai đoạn 2011 - 2015…

Theo Quyết định số 1231/QĐ-TTg ngày 7/9/2012 về việc Phê duyệt kế hoạch phát triển DNNVV giai đoạn 2012 - 2015.

- Về công nghệ: Kết quả khảo sát của Bộ Khoa học và Công nghệ mới đây cho thấy, trình độ khoa học công nghệ và năng lực đổi mới trong DNNVV của Việt Nam còn thấp. Số lượng các DN hoạt động trong lĩnh vực khoa học công nghệ còn rất ít. Số lượng nhà khoa học, chuyên gia làm việc trong các DN chỉ chiếm 0,025% trong tổng số lao động làm việc trong khu vực DN. Khoảng 80 – 90% máy móc và công nghệ sử dụng trong các DN của Việt Nam là nhập khẩu và 76% từ thập niên 1980 – 1990, 75% máy móc và trang thiết bị đã hết khấu hao.

- Về chất lượng nguồn lao động: 75% lực lượng lao động chưa qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật; Việc thực hiện chưa đầy đủ các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người lao động đã làm giảm đi chất lượng công việc trong khu vực DNNVV, do vậy các DNNVV càng rơi vào vị thế bất lợi. Tại Hà Nội, tỷ lệ người lao động được đóng bảo hiểm xã hội đạt 60,53% vào năm 2010.

- Vấn đề về thiếu vốn: Khó khăn nhất vẫn là thiếu vốn cho sản xuất kinh doanh. Hiện nay, chỉ có 30% các DNNVV tiếp cận được vốn từ ngân hàng, 70% còn lại phải sử dụng vốn tự có hoặc vay từ nguồn khác (trong số này có nhiều DN vẫn phải chịu vay ở mức lãi suất cao 15 – 18%). Hiệu quả hoạt động của các ngân hàng cũng bị sụt giảm, tăng trưởng tín dụng thấp, gặp khó khăn trong thu nợ (gốc và lãi). Nợ xấu có xu hướng tăng cao. Điều kiện vay vốn hiện nay chưa phù hợp với DNNVV, rất ít các DN đáp ứng được điều kiện không được nợ thuế quá hạn, không nợ lãi suất quá hạn.

- Chi phí sản xuất tăng cao: Hầu hết giá nguyên liệu đầu vào của các ngành đều tăng, trong khi giá bán sản phẩm không tăng. Đối với ngành có tỷ lệ nội địa hóa thấp, phụ thuộc chủ yếu vào nguồn nguyên liệu, phụ kiện nhập khẩu (ví dụ, sản xuất dây và cáp điện, điện tử…) bị ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh.

- Hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, hàng tồn kho lớn: Sức tiêu thụ của thị trường giảm sút, nhiều DN phải chủ động thu hẹp sản xuất, hoạt động cầm chừng. Hàng tồn kho trong một số ngành hàng tăng cao như bất động sản, vật liệu xây dựng, nông sản… nhiều DN kinh doanh bất động sản phải đối mặt với các khoản vay lớn của ngân hàng, đến hạn trả nhưng không có nguồn thu, không còn tài sản và khả năng huy động vốn để duy trì kinh doanh các ngành chế biến và bảo quản rau, củ, quả tăng 123,2%; sản xuất các sản phẩm từ nhựa tăng 89,1%; sản xuất kim loại đúc sẵn tăng 62,8%; sản xuất xe có động cơ tăng 56,2%; sản xuất xi măng tăng 52,3%...

- Thị trường thu hẹp: Hầu hết các thị trường truyền thống của Việt Nam đều bị thu hẹp, kim ngạch xuất khẩu giảm. Các thị trường mới thì thiếu tính ổn định, chủ yếu hợp đồng ngắn hạn theo thời vụ.

- Hoàn thiện khung pháp lý: Theo hướng tạo những điều kiện thông thoáng nhất cho DN hoạt động (đấu thầu, đất đai, thuế, đầu tư…). Không làm chính sách theo lối “không quản được thì cấm hay hạn chế” hay ban hành thì tùy tiện, thiếu cân nhắc và xa lạ với thực tế với cuộc sống thường ngày. Giảm bớt các quy định, giấy phép can thiệp hành chính vào thị trường.

- Hỗ trợ về tín dụng cho DNNVV: Tiếp tục hạ lãi suất cho vay và nới lỏng các điều kiện vay, đặc biệt là nguồn tín dụng cho vay lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, công nghiệp phụ trợ; Các ngân hàng thực hiện việc khoanh nợ, giãn nợ và tiếp tục cho vay để DN duy trì hoạt động và trả nợ thay vì bị phá sản; Đẩy nhanh tiến độ thành lập Quỹ phát triển DNNVV; Nhanh chóng thực hiện việc cho phép khu vực kinh tế tư nhân được tiếp cận vốn ODA.

Giải pháp hỗ trợ…

Vượt qua những khó khăn của năm 2012 với những thành quả và bài học kinh nghiệm rút ra là động lực cho việc thực hiện nhiệm vụ, kế hoạch trong năm 2013.

2013 được dự báo vẫn là năm rất khó khăn đối với các DNNVV, tuy nhiên trong khó khăn vẫn có nhiều thuận lợi và thời cơ mới với mục tiêu gắn với phương hướng triển khai nhiệm vụ kinh tế - xã hội đã được Quốc hội thông qua. Bên cạnh đó, những chương trình triển khai toàn diện và thận trọng của Chính phủ nhất là những chính sách giải pháp tháo gỡ khó khăn cho DN như: tập trung giải quyết vấn đề tồn kho, nợ xấu, bất động sản, cũng như xây dựng mục tiêu dài hạn, giải quyết đổi mới cơ cấu kinh tế gắn với tăng trưởng, sắp xếp phân bổ vốn đặc biệt đầu tư công; sắp xếp lại DNNN; sắp xếp lại hệ thống tài chính (trọng tâm là các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng). Cùng với đó, tiếp tục đổi mới hệ thống thể chế và tập trung hướng tới nguồn nhân lực chất lượng sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi cho DN trong đó có DNNVV.

Cụ thể, Nghị quyết số 01/NQ- CP ngày 07/01/2013 về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2013 và Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 07/01/2013 về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu. Đây là những chính sách mới hỗ trợ về thuế, lãi suất tín dụng và nguồn vốn… khá toàn diện và cụ thể. Với nội dung sát thực, rõ ràng, đang được kỳ vọng là sẽ góp phần tạo động lực cho DNNVV có đủ điều kiện thực hiện ngay trong những tháng đầu năm 2013.

Từ những tồn tại và hạn chế trên, năm 2013, các DN Việt Nam đặc biệt là DNNVV mong muốn Chính phủ, các bộ, ngành chức năng cụ thể hóa những nội dung và điều kiện thuận lợi phù hợp với thực tế, đảm bảo sự công bằng - minh bạch đưa vào đúng chủ thể, tránh lợi dụng thất thoát và lãng phí. Đồng thời, tạo nên phong cách điều hành mới sâu sát có trách nhiệm, có kỷ cương, tăng cường quản lý kiểm tra, kiểm soát, phát hiện kịp thời có chế tài xử lý những sai phạm, tạo dựng lại kỷ cương, kỷ luật điều hành quản lý theo pháp luật; kịp thời tháo gỡ khó khăn linh hoạt trong điều hành. Nếu triển khai đồng bộ và quyết liệt các chính sách hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho các DNNVV thì năm nay các DNNVV sẽ vượt qua khó khăn, tồn tại và phát triển góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Những quyết sách này góp phần tạo thuận lợi cho DN dù làm giảm nguồn thu cho NSNN, nhưng đây cũng chính là giải pháp nuôi dưỡng nguồn thu tạo điều kiện cho DN phát triển, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng doanh thu, lợi nhuận… và sẽ tác dụng trở lại góp phần tăng thu cho NSNN trong tương lai gần.

Học kế toán tổng hợp thực hành Tại long biên Trước đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1231/QĐ-TTg ngày 07/09/2012 về việc Phê duyệt kế hoạch phát triển DNNVV giai đoạn 2012 - 2015. Theo đó, Quyết định số 1231/ QĐ-TTg đã đưa ra 8 nhóm giải pháp phát triển DNNVV. Cụ thể, hoàn thiện khung pháp lý về gia nhập, hoạt động và rút lui khỏi thị trường của DN; Hỗ trợ tiếp cận tài chính, tín dụng và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho DNNVV; Hỗ trợ đổi mới công nghệ và áp dụng công nghệ mới trong các DNNVV; Phát triển nguồn nhân lực cho các DNNVV, tập trung vào nâng cao năng lực quản trị cho các DNNVV; Đẩy mạnh hình thành các cụm liên kết, cụm ngành công nghiệp, tăng cường tiếp cận đất đai cho các DNNVV; Cung cấp thông tin hỗ trợ DNNVV và xúc tiến mở rộng thị trường cho DNNVV; Xây dựng hệ thống tổ chức trợ giúp phát triển DNNVV; Quản lý thực hiện Kế hoạch phát triển DNNVV. Trong đó, tập trung ưu tiên vào những giải pháp cụ thể sau: Thành lập Quỹ hỗ trợ DNNVV; Đẩy mạnh các chương trình đổi mới ứng dụng công nghệ, chú trọng phát triển công nghệ cao nhằm tạo ra các sản phẩm mới, trang thiết bị, máy móc hiện đại…; Thí điểm xây dựng vườn ươm DN; Thí điểm xây dựng mô hình hỗ trợ toàn diện cho DNNVV trong một số lĩnh vực; Thúc đẩy các liên kết kinh tế, cụm liên kết ngành.
dịch vụ kế toán thuế trọn gói giá rẻ tại tphcm
Trên thực tế có nhiều chính sách hỗ trợ DN như tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi, cạnh tranh bình đẳng cho khu vực DNNVV song nhiều DN vẫn chưa tận dụng được hết thời cơ của chính sách vĩ mô tạo ra như giảm, giãn, miễn thuế; hạ lãi suất; bảo lãnh tín dụng cho DN. Bên cạnh đó, nguồn lực hỗ trợ DNNVV còn hạn chế.
dịch vụ hóa đơn điện tử tại hải dương Theo tapchitaichinh

[Read More...]


Lãi suất cho vay vẫn cao?



Mặc dù các ngân hàng đang ứ tiền, lãi suất đầu vào giảm mạnh nhưng lãi suất cho vay vẫn cao.

Thời gian qua đã có một số ngân hàng giảm lãi suất cho vay về mức 10,5% -11%, tuy nhiên theo các DN để tiếp cận được với lãi suất này không hề dễ dàng, chỉ có một số DN làm hàng xuất khẩu, thuộc diện ưu đãi mới có thể vay được, còn hầu hết các DN khác vẫn phải chịu mức lãi suất cao hơn nhiều.

Lãi suất rẻ, phí đắt

Theo các DN, hiện có 2 nhóm ngân hàng cho vay với 2 mức lãi suất khác nhau.

Nhóm NH quốc doanh lãi suất dao động từ 12%-13%, nhóm NH cổ phần 13%-16%. Tuy nhiên, vay tiền từ NH quốc doanh rất khó khăn, trong khi vay từ nhóm thương mại cổ phần linh hoạt hơn.

Các DN cũng cho biết, hiện họ vẫn phải chịu đựng mức lãi suất cao như nửa cuối năm ngoái, chứ không được điều chỉnh giảm.

Một DN tronh lĩnh vực chế biến lâm sản cho biết, hiện 30% vốn vay của họ đang phải chịu lãi suất 18% một năm và 70% chịu lãi 15%. Không ít DN cho biết, có NH công bố cho vay với lãi suất 13%-14%, nhưng sau đó tính thêm một số chi phí lên tới 16%- 17%/năm.

Theo số liệu từ Ngân hàng Nhà nước, lãi suất cho vay ngắn hạn của các ngân hàng thương mại Nhà nước trong tuần cuối tháng 2/2013 vừa qua từ 11%-15% và trung, dài hạn từ 14,6% - 16,5%. Còn với khối ngân hàng thương mại cổ phần, cho vay ngắn hạn sản xuất kinh doanh thông thường từ 12%-15% và trung, dài hạn là 16%-17,5%. Như vậy mức lãi suất phổ biến mà DN đang phải trả tính bình quân cũng từ 14%-16% vẫn còn khá cao.

Mức lãi suất này được cho là vẫn cao gấp 2 lần so với các nước trong khu vực. Trong khi đó lạm phát so với cùng kỳ năm ngoái hiện là 7%, như vậy với lãi suất cho vay bình quân từ 14%-16%/năm thì mức lãi suất thực từ 7%- 9%. Đây là mức mà không một nền kinh tế nào có thể chịu đựng nổi, đồng thời không kích thích DN tiếp tục triển khai đầu tư mở rộng kinh doanh.

Mới đây, tại phiên họp thường kỳ tháng 2/2013, Chính phủ cũng đã chỉ rõ, lãi suất vẫn đang ở mức cao, dư nợ tín dụng giảm, sản xuất kinh doanh của DN gặp nhiều khó khăn... Chính phủ yêu cầu Ngân hàng Nhà nước điều hành chính sách tiền tệ theo hướng giảm lãi suất, tăng dư nợ tín dụng phù hợp với mục tiêu cả năm 2013 đảm bảo hỗ trợ sản xuất.

Theo các chuyên gia kinh tế thì giảm lãi suất đang trở thành yêu cầu bức thiết nhằm tạo điều kiện cho các DN tiếp cận vốn, thúc đẩy sản xuất.

Nợ xấu cao, khó giảm lãi suất

Trong khi đó thị trường vốn lại bị nghẽn đầu ra với biểu hiện là nhiều ngân hàng đang dư thừa vốn, không biết làm gì, phải chấp nhận gửi vốn trên thị trường liên ngân hàng với mức lãi suất thấp chỉ bằng nửa mức trần lãi suất huy động hay mua trái phiếu Chính phủ.

Rõ ràng ngân hàng đang thừa vốn, còn DN thì thiếu vốn vậy nhưng cung cầu không gặp nhau. Ngăn trở chính là do lãi suất cho vay cao. DN không muốn vay vốn vì lãi suất còn đắt đỏ, trong khi ngân hàng cũng chưa thể hạ lãi suất cho vay, điều này đang phản ánh sự bất ổn trong nội tại nền kinh tế.

Một số ý kiến cho rằng trong tình hình hiện nay nên hạ lãi suất huy động 0,5% để kéo lãi suất cho vay xuống. Theo luồng ý kiến này thì hiện đã có cơ sở để giảm lãi suất, đó là nợ xấu giảm còn 6% làm cho một số lớn nợ xấu được đẩy ra ngoài hệ thống ngân hàng, tạo điều kiện để các ngân hàng đưa vốn ra thị trường, tăng dư nợ tín dụng. Chỉ số CPI tăng thấp vì vậy áp lực lên lạm phát không nhiều. Với trần lãi suất huy động 7,5% người gửi tiền vẫn có lãi suất thực dương và kênh tiết kiệm vẫn hấp dẫn với người dân.

Học kế toán tổng hợp thực hành Tại thủ đức Nhưng cũng có ý kiến ngược lại cho rằng, mức giảm như vậy khó kéo lãi suất cho vay giảm mạnh. Nợ xấu của hệ thống ngân hàng thời gian qua giảm nhanh không phải do nền kinh tế chuyển động tốt lên, luân chuyển hàng hoá tốt, tồn kho giảm... mà do các ngân hàng đã dùng trích lập dự phòng rủi ro để xoá đi một phần. Nghĩa là, các ngân hàng đã đánh đổi lợi nhuận để giảm nợ xấu, chứ không phải bản thân các khoản nợ xấu tốt lên.

Nợ xấu lớn buộc các ngân hàng phải tăng trích lập dự phòng rủi ro dẫn đến chi phí vốn tăng cao khó có thể giảm lãi suất cho vay. Do vậy, dù lãi suất huy động tới đây có tiếp tục giảm, thì lãi suất cho vay cũng khó giảm mạnh và tăng trưởng tín dụng vẫn là một thách thức của nền kinh tế.

dịch vụ kế toán thuế trọn gói giá rẻ tại từ liêm Rõ ràng, lãi suất cho vay còn cao, việc yêu cầu các ngân hàng tiếp tục hạ lãi suất cho vay là bức thiết, nhưng nếu nợ xấu chưa được giải quyết, thì sẽ khó thực thi. Các chuyên gia khẳng định, nợ xấu là nguyên nhân chính làm nghẽn dòng tín dụng, khiến lãi suất không thể giảm sâu. Vì vậy, muốn giảm lãi suất, khai thông dòng chảy tín dụng, biện pháp đầu tiên là phải nhanh chóng thực hiện các giải pháp xử lý nợ xấu.

Nhưng xử lý nợ xấu được cho là diễn ra quá chậm. Nếu chỉ để mỗi ngân hàng xử lý nợ xấu thì hy vọng giảm lãi suất cho vay xuống thấp chắc khó xảy ra.
dịch vụ hóa đơn điện tử tại vĩnh phúc Theo vef
[Read More...]


Trong hoạt động ngân quỹ cần siết chặt kỷ cương



Kho bạc Nhà nước (KBNN) cho biết, trong năm 2013 hệ thống Kho bạc sẽ tập trung quyết liệt công tác kiểm tra, kiểm soát đội ngũ CBCC Kho bạc nhằm uốn nắn, chấn chỉnh những sai sót tồn tại trong hoạt động nghiệp vụ và quản lý nội bộ nhằm giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương trong việc thực hiện các hoạt động quản lý ngân quỹ.

Theo đó, KBNN sẽ xử lý nghiêm những đơn vị và cá nhân không chấp hành nghiêm túc chế độ, quy trình nghiệp vụ; nội quy, quy chế cơ quan và 10 điều kỷ luật của Ngành. Đồng thời, làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ cán bộ, công chức để nâng cao ý thức trách nhiệm và tinh thần phục vụ trong quá trình thực thi công vụ.

Bên cạnh đó, KBNN sẽ tiếp tục quán triệt đội ngũ CBCC thực hiện nghiêm túc các quy định về quản lý tài khoản tiền gửi của KBNN tại ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại; chế độ quản lý tiền mặt, giấy tờ có giá và tài sản quý trong hệ thống; tăng cường các biện pháp kiểm tra thường xuyên và đột xuất công tác quản lý tài khoản tiền gửi của KBNN tại ngân hàng và quản lý an toàn kho quỹ; chủ động phối hợp với cơ quan Công an trên địa bàn thực hiện tốt các biện pháp nhằm bảo vệ an ninh, an toàn tuyệt đối tiền, tài sản trong hệ thống KBNN.

Học kế toán tổng hợp thực hành Tại bắc ninh Ngoài ra, căn cứ định hướng và kế hoạch kiểm tra của KBNN, các đơn vị KBNN tỉnh, thành phố đã chủ động xây dựng kế hoạch kiểm tra và chủ động tổ chức thực hiện thông qua nhiều hình thức như: kiểm tra đột xuất, kiểm tra thường xuyên, kiểm tra theo chuyên đề.

Trong năm 2012, KBNN đã tổ chức kiểm tra tại 14 đơn vị KBNN tỉnh, thành phố và 28 KBNN quận, huyện, thị xã; Trong đó, kiểm tra toàn diện 1 KBNN tỉnh và 2 KBNN quận, huyện; kiểm tra thường xuyên tại 2 KBNN tỉnh, thành phố và 4 KBNN quận, huyện; kiểm tra chéo tại 11 KBNN tỉnh, thành phố và 22 KBNN quận, huyện, thị xã; kiểm tra theo chuyên đề tại 24 đơn vị KBNN. KBNN các tỉnh, thành phố tiến hành kiểm tra trên 1.300 lượt đơn vị trực thuộc.

dịch vụ kế toán thuế trọn gói giá rẻ tại hải phòng Trên cơ sở kết quả kiểm tra thanh tra, KBNN đã có văn bản chỉ đạo, chấn chỉnh kịp thời chung toàn hệ thống cũng như từng đơn vị để sớm có biện pháp xử lý sai sót, tồn tại. Công tác theo dõi, chỉ đạo xử lý sau thanh tra, kiểm tra, kiểm toán được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc.

Công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của hệ thống KBNN đảm bảo đúng trình tự, thủ tục và các quy định của Nhà nước, của ngành. Năm 2012, toàn hệ thống KBNN đã tiếp nhận xử lý 78 đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị phản ánh. Kết quả, đã giải quyết 74 đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị phản ánh thuộc thẩm quyền; hướng dẫn đương sự và chuyển cơ quan có thẩm quyền giải quyết 4 đơn không thuộc thẩm quyền.
dịch vụ hóa đơn điện tử tại quận cầu giấy Theo tapchitaichinh
[Read More...]


Vẫn nóng chuyện lãi suất và tồn kho



Lãi suất vẫn ở mức cao và khó tiếp cận, trong khi hàng tồn kho tiếp tục là nỗi "ám ảnh" với nhiều doanh nghiệp. Tại Hội nghị Doanh nghiệp được tổ chức lần này, UBND Tp.Hà Nội đã bày tỏ rõ quyết tâm sẽ đồng hành cùng doanh nghiệp để lắng nghe và tháo gỡ mọi vướng mắc. Mặc dù nhiều doanh nghiệp vẫn xác định phải "tự bơi", nhưng cũng có không ít hy vọng được nhóm lên khi thành phố cho biết sẽ thành lập tổ công tác Ban chỉ đạo và đường dây nóng về tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp vào tháng 4 tới.

"Niềm tin của doanh nghiệp đang bị giảm sút nghiêm trọng" là chia sẻ của ông Trần Anh Vương, Tổng Giám đốc Công ty CP Thép Bắc Việt, Phó Chủ tịch Hội Doanh nghiệp trẻ Hà Nội. Cũng bởi, trong khi đầu ra đang bế tắc thì chi phí đầu vào gia tăng, lãi suất vẫn ở mức cao và việc tiếp cận vốn còn nhiều khó khăn.

Sa lầy vào nợ ngân hàng

Là người hoạt động trong ngành ngân hàng, nhưng ông Đỗ Quang Hiển, Chủ tịch Ngân hàng Sài Gòn - Hà Nội (SHB) khi chia sẻ với vai trò là Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Hà Nội, cũng phải thừa nhận, việc tiếp cận vốn của các doanh nghiệp vẫn đang là vấn đề nan giải do doanh nghiệp không có tài sản đảm bảo. Lãi suất cho vay hiện cũng chưa giảm tới mức mong đợi của doanh nghiệp. "Theo quy định, ngân hàng nào cũng đòi tài sản đảm bảo nhưng doanh nghiệp đã vừa và nhỏ thì làm gì có tài sản để thế chấp. Bài toán này đã đưa ra từ lâu rồi nhưng vẫn chưa có giải pháp nào", ông Hiển cho biết.

Khá bức xúc với vấn đề lãi suất, ông Đoàn Trọng Lý, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Chăn nuôi chế biến và Xuất nhập khẩu (Aprocimex), chỉ ra thực trạng: "Nhiều doanh nghiệp đang lâm vào cảnh tiến thoái lưỡng nan, cực kỳ khó khăn và gay go do sa lầy vào nợ ngân hàng không trả được, tài sản đảm bảo cũng nằm ở ngân hàng".

Bởi theo vị giám đốc này, lãi suất cho vay tăng cao trong thời gian dài đã làm cho doanh nghiệp ngày càng khó và kiệt quệ. Do đó, mặc dù hiện lãi suất đã giảm nhưng so với các nước chỉ ở mức 4 - 5%, và so với sức chịu đựng của doanh nghiệp, thì vẫn còn quá cao.

Đại diện của Hội Doanh nghiệp trẻ Hà Nội thì cho biết, nỗi lo của nhiều doanh nghiệp trong Hiệp hội hiện không chỉ là tồn kho cao mà cả tồn kho thấp còn đáng "lo ngại hơn". Cũng bởi, tồn kho thấp là khi doanh nghiệp đã bán gần hết hàng nhưng vẫn chưa thu hồi được nợ, nên không còn tài sản đảm bảo.
Do vậy, ông Vương cho rằng bên cạnh khoản nợ xấu giữa doanh nghiệp với ngân hàng vốn rất được dư luận quan tâm, còn những khoản nợ đáng lo ngại hơn lại không được thống kê, đó là nợ giữa Chính phủ và doanh nghiệp qua các công trình xây dựng cơ bản; và khoản nợ giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp trong kinh doanh.

Chưa vơi hết nỗi khó khăn, nhiều chính sách đưa ra lại càng tạo thêm gánh nặng cho doanh nghiệp. Ông Vương dẫn ra trường hợp có doanh nghiệp thuê đất với mức giá trước đây là 20 triệu đồng/ha, đến năm 2012 là 800 triệu đồng/ha, tăng gấp 40 lần, đã làm cho doanh nghiệp điêu đứng.

Đại diện của Tổng Công ty Thương mại Hà Nội, Tổng Giám đốc Vũ Thanh Sơn, cũng cho biết cùng với áp lực trả lãi vay, việc phải chịu thêm 125 tỷ đồng tiền thuê đất hằng năm đã làm cho doanh nghiệp thêm khó khăn.

Lo độ trễ chính sách

Đã có không ít chính sách được ban hành nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, không ít lãnh đạo các doanh nghiệp đều tỏ ra khá lo ngại về "độ trễ" của chính sách. Theo ông Lý, những chính sách được ban hành đều không sai về chủ trương, hay câu chữ, nhưng việc chính sách ấy có đi vào cuộc sống hay không thì còn nhiều điều phải bàn.

Cùng quan điểm trên, ông Hiển cho rằng Chính phủ đã rất quan tâm đến tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp khi đưa ra các chính sách và giải pháp. Tuy nhiên, tính hiệu quả triển khai xuống doanh nghiệp vẫn có khoảng cách khi chưa tạo được sự gắn kết kịp thời với cuộc sống.

Không bàn nhiều về độ trễ của chính sách, ông Vương cho rằng trong bối cảnh hiện nay, các doanh nghiệp phải "tự thân vận động" là chính khi các chính sách đưa ra là đúng, nhưng lại không "trúng" đối tượng hỗ trợ.

Dẫn chứng từ thực tế, vị lãnh đạo này cho hay nếu "chiếu" theo đề xuất giảm thuế thu nhập doanh nghiệp xuống 20% cho các doanh nghiệp dưới 200 lao động, có doanh thu dưới 20 tỷ đồng, thì những doanh nghiệp nông, lâm, thủy sản, doanh nghiệp xuất khẩu có trên 300 lao động vốn là đối tượng khó khăn nhất, sẽ không thuộc diện hỗ trợ.

"Nhiều doanh nghiệp chia sẻ với tôi rằng nếu quy định như vậy thì chỉ những công ty lớn như Samsung, Canon đang phát triển rất tốt, mới đáp ứng đủ hai điều kiện trên để được hỗ trợ", ông Vương nói.

Khá nản lòng với nhiều kiến nghị đã được đưa ra nhưng vẫn chưa được ghi nhận và thực hiện, nhiều doanh nghiệp trong Hội nghị này đã đưa ra một đề xuất khá ngắn gọn nhưng khá "lạ". Đó là mong mỏi những kiến nghị trước đó sẽ được các cấp ngành thực sự lắng nghe, đánh giá lại hiệu quả thực hiện.
Còn trong điều kiện như hiện nay, dù không ít chính sách đã đưa ra, nhưng nhiều doanh nghiệp cho biết sẽ chỉ trông vào nội lực bản thân để tự vượt qua khó khăn.

Sẽ có đối thoại chuyên sâu, thẳng thắn

Ông Nguyễn Thế Thảo, Chủ tịch UBND Thành phố Hà Nội

Chỉ số năng lực cạnh tranh của Hà Nội bị giảm 15 bậc. Đây là kết quả đáng buồn. Rõ ràng doanh nghiệp đã "chê" Hà Nội và các ngành, địa phương Hà Nội cần nhìn thẳng vấn đề để giải quyết. Một trong các biện pháp là đối thoại. Hà Nội sẽ thành lập Ban chỉ đạo giải quyết các vướng mắc của doanh nghiệp và sẽ họp 3 tháng/lần. Ban chỉ đạo sẽ mời cả lãnh đạo các hiệp hội, ngành nghề và sẽ tổ chức những phiên đối thoại chuyên sâu, thậm chí tập trung giải quyết những trường hợp cá biệt.

Các Sở, ban ngành trên địa bàn phải bám sát khó khăn của doanh nghiệp, tháo gỡ kịp thời khó khăn cho doanh nghiệp không để chính sách đến quá trễ khiến doanh nghiệp khó càng thêm khó. Thành phố sẽ tiếp tục duy trì gói 300 tỷ đồng hỗ trợ lãi suất đồng hành cùng doanh nghiệp vượt qua khó khăn.
Ngoài ra, thành phố cũng sẽ tiếp tục thực hiện các chính sách hoãn, giãn thuế, giúp doanh nghiệp bớt chi phí, thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh.

Kiến nghị trực tiếp lên NHNN

Bà Nguyễn Thị Mai Sương - Giám đốc NHNNChi nhánh thành phố Hà Nội

Học kế toán tổng hợp thực hành Tại bắc ninh Ngân hàng nhận chỉ đạo từ phía Nhà nước là hỗ trợ tích cực"cứu" doanh nghiệp nhưng hệ thống ngân hàng cũng phải tự lo trang trải cho đơn vị mình trước. Việc điều chỉnh tỷ giá phải cân đối với cán cân xuất nhập khẩu, cán cân thương mại cũng như mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô. Ngân hàng Nhà nước chi nhánh Hà Nội sẽ có trách nhiệm tham mưu, báo cáo Chính phủ và đưa ra chính sách hợp lý về vấn đề này.

Hiện ngân hàng vẫn chưa nhận được ý kiến chính thức của doanh nghiệp nào đủ điều kiện vay vốn nhưng không được vay. Nếu doanh nghiệp nào đã đủ điều kiện vay nhưng không được ngân hàng đáp ứng, doanh nghiệp gửi trực tiếp kiến nghị lên lãnh đạo Chi nhánh NHNN Hà Nội để giải quyết.

DN cần phản ánh nhũng nhiễu

Phi Văn Tuấn, Cục trưởng Cục Thuế

dịch vụ kế toán thuế trọn gói giá rẻ tại tphcm Trong khi thực hiện nghĩa vụ với cơ quan thuế nếu gặp phiền hà nhũng nhiễu, nhất là về thủ tục hành chính, đe nghị doanh nghiệp phản ánh kịp thời đến các số điện thoại nóng tại cục thuế, cơ quan thuế các quận, huyện. Đồng thời, trong quá trình hoàn thuế, thanh tra, kiểm tra của lực lượng chức năng, các doanh nghiệp tuyệt đối không nên có động thái về "tiêu cực phí", nếu không, doanh nghiệp sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm về hậu quả. Thực tế, thời gian gần đây, đã có trường hợp doanh nghiệp khai khống về tồn kho hàng hóa, câu kết với cán bộ thuế, ngân hàng để được vay vốn.
dịch vụ hóa đơn điện tử tại quận cầu giấy Theo thoibaokinhdoanh

[Read More...]


Ngân hàng phá sản, đáng lo ngại?



Thông tin về việc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chấp nhận cho ngân hàng yếu kém, tái cơ cấu, sáp nhập hoặc thậm chí phá sản khiến người gửi tiền tiết kiệm lo lắng khi ngân hàng mình gửi tiền lâm vào hoàn cảnh trên.

Theo qui trình, một ngân hàng nộp thủ tục xin phá sản, phần tiền thu được từ việc thanh lý tài sản sẽ được trả cho các chủ nợ theo thứ tự ưu tiên: cơ quan thuế, người gửi tiền, các tổ chức tín dụng (TCTD) trên thị trường liên ngân hàng, người sở hữu trái phiếu của ngân hàng, các nhà cung cấp sản phẩm dịch vụ và cuối cùng là cổ đông của ngân hàng.

Bảo đảm tiền gửi của khách hàng

Luật sư Phạm Chí Công, công ty Luật Khai Phong, cho biết người gửi tiền ở tất cả các ngân hàng, hoặc TCTD, đều phải tham gia bảo hiểm tiền gửi. Có nghĩa là khi một ngân hàng nào đó nộp đơn xin phá sản thì khách hàng gửi tiền tại TCTD đó đều được bảo hiểm tiền gửi chi trả.

Ví dụ khách hàng gửi tiết kiệm 100 triệu đồng tại ngân hàng, trong trường hợp ngân hàng mất khả năng thanh toán dẫn đến không có khả năng chi trả, chấm dứt hoạt động, bảo hiểm tiền gửi sẽ chi trả cho người gửi tiền 50 triệu đồng, số còn lại cùng với lãi ở ngân hàng sẽ được giải quyết theo Luật Phá sản.

Đối với trường hợp ngân hàng giải thể, không tiếp tục hoạt động, ngân hàng sẽ phải thực hiện mọi nghĩa vụ cho khách hàng trước khi giải thể. Còn trong trường hợp ngân hàng được một ngân hàng khác mua lại hay sáp nhập thì ngân hàng trong tương lai sẽ tiếp quản, giải quyết các quyền và nghĩa vụ của ngân hàng cũ. Theo luật sư Công, trong mọi trường hợp, khách hàng gửi tiền không lo bị mất tiền. Phía NHNN Việt Nam cũng từng khẳng định, trong quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, mục tiêu hàng đầu là phải bảo vệ quyền lợi người gửi tiền.

Mặc dù vậy, thì người gửi tiền vẫn lo lắng khi mức bảo hiểm tiền gửi như trên là quá thấp. Một sổ tiết kiệm hàng tỷ đồng, nhưng chỉ bảo hiểm 50 triệu đồng thì rõ ràng là quá lạc hậu, không phù hợp với tốc độ tăng trưởng của ngân hàng. Nếu sự thật ngân hàng phá sản thì sẽ ảnh hưởng nặng đến niềm tin của người gửi tiền vào hệ thống ngân hàng.

Tẩu tán tài sản

Trong khi đó, nếu ngân hàng yếu kém có thể bị phá sản, họ sẽ cố gắng kéo dài thời gian để tìm cách tẩu tán tài sản. Ví dụ, họ có thể thành lập công ty con để thế chấp tài sản, vay tiền và ghi vào nợ xấu, khi ngân hàng phá sản thì nhiều khả năng sẽ được xóa bỏ. Lúc đó, có lẽ chỉ có khách hàng gửi tiền, cổ đông sẽ chịu thiệt, còn những ông chủ ngân hàng sẽ vẫn ung dung hưởng lợi những món tài sản lớn.

Trường hợp Habubank là một điển hình, khi NHNN báo cáo giám sát đặc biệt, vốn chủ sở hữu chỉ còn chưa đầy 200 tỷ đồng, trong khi báo cáo tài chính (đã được kiểm toán) năm 2011 ghi vốn chủ sở hữu của Habubank là hơn 4.051 tỷ đồng. Nếu Habubank không được cứu mà rơi vào tình trạng phá sản thì chưa biết ai được lợi hơn. Bởi trước khi sáp nhập, vào quý I/2012, Habubank có tổng tài sản hơn 34.600 tỷ đồng. Như vậy, trong trường hợp phá sản, giả định tài sản của Habubank được thanh lý với mức giá chiết khấu 50%, số tiền thu về đã đủ để chi trả cho người gửi tiền, và 50 triệu đồng bảo hiểm tiền gửi/tài khoản, số còn lại là món hời rất lớn.

Học kế toán tổng hợp thực hành Tại từ liêm Các phân tích trên đây đều là giả định, nhưng khi diễn ra sẽ không hề đơn giản vì còn liên quan tới nhiều ngân hàng, nhiều khoản vay nợ khác... Vì vậy, các chuyên gia cho rằng muốn bảo vệ tốt tiền gửi của khách hàng, NHNN phải ra tay giám sát chặt chẽ cổ đông lớn ở những ngân hàng yếu kém, muốn chống đối lại việc sáp nhập, bị mua rẻ để tẩu tán tài sản, thậm chí phải phong tỏa tài sản khi cần thiết.

Phá sản cũng bình thường

Trong kinh doanh, mọi doanh nghiệp đều bình đẳng, NHTM cũng là một doanh nghiệp, vì vậy việc kinh doanh thua lỗ dẫn đến chấm dứt hoạt động là việc bình thường. Bởi lúc kinh tế khó khăn, hàng nghìn doanh nghiệp thua lỗ phá sản, còn nhiều ngân hàng lại báo cáo lãi hàng nghìn tỷ đồng là rất bất công. Sau đó, các ngân hàng yếu kém lại được Nhà nước đứng ra bảo đảm tính thanh khoản là điều vô lý, dù bảo đảm bằng nguồn tiền nào đi nữa thì cũng là tiền đóng thuế của dân.

Ai cũng biết, lĩnh vực ngân hàng rất nhạy cảm, nếu để ngân hàng phá sản sẽ ảnh hưởng đến người gửi tiền, gây bất ổn cho nền kinh tế. Tuy nhiên, khi ngân hàng phá sản thì người gửi tiền vẫn được xem là một chủ nợ và được phân chia tài sản còn lại của ngân hàng.

Thạc sĩ Nguyễn Việt Khoa, giảng viên Khoa Luật Kinh tế Trường Đại học Kinh tế Tp.HCM, cho biết: Việc phá sản của ngân hàng cũng là chuyện bình thường. Chính sách tiền tệ là vì lợi ích của hàng trăm nghìn doanh nghiệp chứ không phải vì lợi ích của vài chục ngân hàng. "Nếu Nhà nước muốn cứu thì hãy cứu hàng trăm nghìn doanh nghiệp khó khăn hiện nay, bởi vì khi họ phá sản, hàng loạt người sẽ phải thất nghiệp, cuộc sống sẽ khó khăn hơn", thạc sĩ Khoa nhấn mạnh.

dịch vụ kế toán thuế trọn gói giá rẻ tại tphcm Trước đây, một lãnh đạo cao cấp cũng từng khẳng định, "Nếu không cho ngân hàng phá sản thì sẽ không có kinh tế thị trường". Cho nên, ngân hàng nào làm tốt thì tồn tại, nếu không tốt, không sáp nhập, thì mạnh dạn cho phá sản. Người dân cũng phải lựa chọn ngân hàng tốt, tạo được lòng tin, để gửi tài sản của mình vào đó.

Một số chuyên gia khác cũng khẳng định, các chủ ngân hàng tạo ra rủi ro rất lớn đối với hệ thống tài chính, nền kinh tế, làm suy giảm tài sản của các cổ đông, làm ảnh hưởng đối với tiền gửi của người dân thì phải bị trừng phạt. Một số ngân hàng yếu kém khi được Nhà nước hỗ trợ thanh khoản lại dùng số tiền đó đi thâu tóm các ngân hàng khác, đó là điều không thể chấp nhận. Vì vậy, cần chuẩn bị tinh thần cho ngân hàng yếu kém bị phá sản.
dịch vụ hóa đơn điện tử tại bắc giang Theo thoibaokinhdoanh

[Read More...]


Công khai, minh bạch để việc điều hành giá xăng dầu tốt hơn



Trả lời báo giới về quyết định điều chỉnh giá xăng dầu tại buổi Họp báo Thường kỳ Chính phủ tháng 3/2013, Thứ trưởng Bộ Tài chính Vũ Thị Mai cho biết, quan điểm điều hành của Chính phủ và liên Bộ Tài chính - Công thương là luôn xác định và cân nhắc các lợi ích và hài hòa lợi ích của người dân, Nhà nước và doanh nghiệp. Khi đề xuất bất kỳ phương án nào về điều hành giá xăng dầu cũng đã tính toán rất kỹ đến lợi ích của người dân, Nhà nước và doanh nghiệp.

Học kế toán tổng hợp thực hành Tại nam định Thứ trưởng Vũ Thị Mai khẳng định, trong lần điều chỉnh này tại sao lại điều chính với mức như đã thông báo, ví dụ như xăng là 1.430đ/lít. Qua tính toán và theo công thức tính giá cơ sở tại Thông tư 234, với lần điều chỉnh này, dừng sử dụng quỹ bình ổn vì quỹ bình ổn đã hết. Tính toán đủ chi phí của xăng dầu thì kết quả là giá cơ sở cao hơn giá bán hiện hành, cụ thể với mặt hàng xăng là 1.430 đồng/lít, dầu diezel là 362đ/lít, dầu hỏa 480đ/lít, dầu mazut 807đ/kg. Đấy chính là chênh lệch giá cơ sở cao hơn giá bán hiện hành trước thời điểm 20 giờ ngày 28/3. Liên bộ đã quyết định đề xuất phương án là điều chỉnh giá đúng bằng chênh lệch giá cơ sở cao hơn giá bán hiện hành.

Về thuế nhập khẩu có tính đến hay không khi điều chỉnh lần này thì tôi xin trả lời là Liên bộ đã tính đến, với thuế nhập khẩu hiện hành đối với xăng là 12%, dầu diezel 8%, dầu hỏa và dầu mazut 10%, thì xuất thuế nhập khẩu này so với barem thuế đang thấp hơn, theo quy định là đối với giá xăng dầu như hiện nay thì Nhà nước có khả năng áp thuế đến 20%.

dịch vụ kế toán thuế trọn gói giá rẻ tại bắc ninh Thứ trưởng cũng khẳng định, trong quá trình điều hành giá xăng dầu và quản lý quỹ bình ổn giá, Liên Bộ Tài chính-Công Thương luôn đảm bảo tính công khai, minh bạch. Tuy nhiên Liên Bộ ghi nhận các ý kiến phản ảnh và trong thời gian tới sẽ đảm bảo công khai, minh bạch hơn nữa để các cơ quan báo chí và nhân dân giám sát, đóng góp ý kiến để việc điều hành giá xăng dầu và quản lý quỹ bình ổn giá được sát hơn.

Cũng tại buổi họp báo trả lời khá nhiều câu hỏi của báo chí, Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Vũ Đức Đam nhấn mạnh: “Chính phủ khẳng định điều hành giá xăng dầu là đúng quy định, đảm bảo an ninh năng lượng, đảm bảo lợi ích chung chứ không phải vì lợi ích cục bộ của một số doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu”.
dịch vụ hóa đơn điện tử tại hà nam Theo tapchitaichinh
[Read More...]


Mặt bằng lãi suất giảm đã có tác động tích cực



Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vừa có đánh giá bước đầu về tác động của Quyết định 643/QĐ-NHNN ngày 25-3-2013 đối với việc giảm các mức lãi suất chủ chốt thêm 1%.

Nhìn chung các động thái giảm mặt bằng lãi suất đã có tác động tích cực, củng cố niềm tin của các doanh nghiệp và người dân. Tuy nhiên, lãi suất cho vay không thể giảm nhanh như mong đợi, mà phải có độ trễ nhất định do tăng trưởng tín dụng quá nóng trong thập kỷ qua với phần lớn lượng vốn được chuyển vào thị trường bất động sản, cả lãi suất và lạm phát cùng song hành đi lên.

Học kế toán tổng hợp thực hành Tại long biên Tín hiệu khả quan là thị trường tài chính đã có dấu hiệu khởi sắc, hệ thống ngân hàng vẫn ổn định, an toàn và đang có xu hướng phát triển bền vững. Với dấu hiệu tích cực này, cộng với nỗ lực của các tổ chức tín dụng (TCTD) trong việc phối hợp cùng tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, hy vọng từ quý 2-2013, tín dụng sẽ tăng trở lại, góp phần tích cực cho việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế đạt 6% trong năm nay.

NHNN cho biết, việc giảm mặt bằng lãi suất là một bước tiếp theo trong gói giải pháp tổng thể, từng bước tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế trong bối cảnh chỉ số giá tiêu dùng tháng 3-2013 giảm 0,19% so với tháng 2, nhu cầu tiêu dùng yếu, hàng hóa tồn đọng còn nhiều và khu vực doanh nghiệp chưa thoát khỏi khó khăn. Ngay từ ngày đầu tuần, một số TCTD đã điều chỉnh giảm lãi suất tiền gửi dưới 1 năm về mức 7-7,5%, giảm lãi suất tiền gửi trung dài hạn xuống khoảng 10,5%/năm từ 11-12%/năm trước đây.

Dưới sự chỉ đạo sát sao của NHNN và động thái của các TCTD về việc giảm lãi suất được coi là đang diễn ra theo tín hiệu thị trường, nổi bật là diễn biến lạm phát. NHNN đã tính toán cụ thể qui mô và mức độ can thiệp cần thiết, tránh tác động tiêu cực đến nền kinh tế vốn đang trong tình trạng khó khăn, nếu hạ lãi suất dưới mức lạm phát hay đánh thuế tiền gửi thì sẽ gây tác hại về mặt tâm lý, thậm chí có thể dẫn đến tình trạng rút tiền ồ ạt. Hơn nữa, nếu có đánh thuế tiền gửi tiết kiệm thì cũng không dễ hướng được dòng tiền vào sản xuất kinh doanh, người gửi tiền sẽ tính toán chuyển một phần tiền gửi sang vàng và ngoại tệ.

Về phía NHNN, hạ mặt bằng lãi suất xuống mức nào là vấn đề phải được cân nhắc kỹ lưỡng, sau khi đã liên tục điều chỉnh giảm các mức lãi suất chủ chốt trong thời gian rất ngắn. Về vấn đề này, việc cho phép các TCTD tự ấn định lãi suất tiết kiệm dài hạn cũng nhằm đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền, đồng thời giúp các TCTD tái cơ cấu nguồn vốn theo hướng tăng dần tỉ trọng tiền gửi dài hạn, qua đó sẽ đáp ứng tốt hơn nhu cầu về vốn trung dài hạn của nền kinh tế.

dịch vụ kế toán thuế trọn gói giá rẻ tại hải phòng Mặc dù hệ thống ngân hàng có tác động rất lớn đến nền kinh tế thông qua hoạt động tín dụng, nhưng lãi suất cho vay rất khó giảm tương ứng với lãi suất huy động do nhiều khoản nợ cũ với lãi suất cao vẫn chưa được xử lý. Điều này đòi hỏi phải có sự vào cuộc đồng thời của các cơ quan quản lý, nhất là Chính phủ cần tạo ra nguồn cầu dài hạn cho nền kinh tế theo hướng khởi động lại các gói kích cầu để tăng tiêu dùng và đầu tư, có chính sách bù đắp một phần lãi suất đối với những khoản vay được các ngân hàng tiến hành giãn nợ và khoanh nợ, trước hết là đối với những doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh và công nghệ tiên tiến nhưng do hàng tồn đọng nên chưa dám mở rộng sản xuất kinh doanh.

Trước đó, ngày 25-3-2013, NHNN đã ban hành Quyết định số 643/QĐ-NHNN về việc giảm các mức lãi suất chủ chốt thêm 1%; ban hành Thông tư số 08/TT-NHNN giảm 0,5% trần lãi suất tiền gửi VND kỳ hạn từ 01 tháng đến dưới 12 tháng từ 8%/năm xuống 7,5%/năm, lãi suất tiền gửi kỳ hạn từ 12 tháng trở lên sẽ do các TCTD tự ấn định trên cơ sở cung cầu vốn trên thị trường. NHNN cũng ban hành Thông tư số 09/TT-NHNN giảm 1% lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND đối với các lĩnh vực ưu tiên xuống còn 11%/năm./.
dịch vụ hóa đơn điện tử tại quận cầu giấy Theo baohaiquan

[Read More...]


Một vài ngân hàng đã và sắp thu phí ATM



Hiện 8 ngân hàng có phương án thu phí giao dịch ATM rút tiền nội mạng; trong đó 5 ngân hàng đã áp dụng.

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho biết, đến nay, có 35 tổ chức phát hành thẻ chưa thu phí giao dịch ATM rút tiền nội mạng do các tổ chức này có lượng thẻ phát hành và lượng máy ATM sở hữu chưa nhiều nên chưa mất nhiều chi phí đầu tư cho hạ tầng và duy trì dịch vụ ATM.

Hiện có 8 ngân hàng có chính sách thu phí giao dịch ATM rút tiền nội mạng gồm BIDV, Vietinbank, Vietcombank, Agribank, Sacombank, SeABank, LienVietPost Bank và WesternBank. Trong 8 ngân hàng trên, Vietcombank, Sacombank, SeABank, LienVietPost và WesternBank đã áp dụng thu phí; 3 ngân hàng còn lại dự kiến thu phí nhưng đang áp dụng khuyến mại nhân dịp 30-4 hoặc chưa chốt thời điểm áp dụng là BIDV, Agribank và Vietinbank. Phần lớn các ngân hàng trên đều có số lượng thẻ phát hành lớn, chiếm tới 70% số lượng thẻ ghi nợ nội địa toàn thị trường và sở hữu lượng máy ATM chiếm 57% tổng số máy trên toàn thị trường.
Học kế toán tổng hợp thực hành Tại hà đông
“Nhìn chung, những tổ chức phát hành này đã mất nhiều chi phí cho đầu tư hạ tầng và duy trì dịch vụ ATM trong những năm qua nên có nhu cầu thu phí giao dịch ATM nội mạng để bù đắp phần nào chi phí bỏ ra" - NHNN nhận định.

Đối với 3 tổ chức phát hành thẻ là VietBank, KienLongBank và Quỹ Tín dụng Nhân dân TW do mới lưu hành thẻ ghi nợ nội địa nên chưa xây dựng biểu phí cụ thể cho sản phẩm này.

dịch vụ kế toán thuế trọn gói giá rẻ tại hà đông Cũng liên quan đến vấn đề thu phí ATM, NHNN cho biết, đã có 4/46 tổ chức phát hành thẻ có chính sách thu phí rút tiền ATM nội mạng như Vietcombank, Agribank... đề ra những chính sách cụ thể về phân loại đối tượng khách hàng và hỗ trợ cho người lao động có thu nhập thấp, sinh viên nghèo... Những tổ chức phát hành thẻ này đều có quy mô lớn với lượng thẻ ghi nợ nội địa chiếm 45% tổng số thẻ toàn thị trường và sở hữu lượng máy ATM chiếm tới 38% tổng số máy ATM tại Việt Nam, qua đó giúp một bộ phận không nhỏ những đối tượng khách hàng nêu trên được hưởng những lợi ích, cụ thể, thiết thực, tránh bị ảnh hưởng bởi việc thu phí rút tiền ATM nội mạng.

Các tổ chức phát hành thẻ khác mặc dù chưa nêu ra chính sách, biện pháp hỗ trợ cụ thể đối với nhóm đối tượng trên nhưng qua việc chưa áp dụng thu phí giao dịch ATM rút tiền nội mạng cũng đã cho thấy họ hưởng ứng chủ trương trên.
dịch vụ hóa đơn điện tử tại quảng ninh Theo hanoimoi

[Read More...]


Yêu cầu các tổ chức tín dụng rà soát lại toàn bộ mạng lưới



Đối với những đơn vị kinh doanh thua lỗ, không an toàn, vi phạm quy định của pháp luật, tổ chức tín dụng (TCTD) phải có kế hoạch khắc phục, hoặc đóng cửa, hoặc chuyển giao về đơn vị đầu mối khác.

Ngày 12/4/2013, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ban hành văn bản số 2536/NHNN-TTGSNH về việc kiện toàn tổ chức và hoạt động của các đơn vị mạng lưới của TCTD.
Theo văn bản này, để kiện toàn tổ chức và hoạt động của các đơn vị mạng lưới (bao bồm: chi nhánh trong nước, chi nhánh nước ngoài, sở giao dịch, phòng giao dịch, điểm giao dịch, quỹ tiết kiệm, công ty con, văn phòng đại diện, đơn vị sự nghiệp) của TCTD (trừ các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở/quỹ tín dụng nhân dân), Thống đốc NHNN yêu cầu các TCTD lập kế hoạch rà soát toàn diện tổ chức và hoạt động của hệ thống các đơn vị mạng lưới để có biện pháp chấn chỉnh, củng cố nhằm đảm bảo hoạt động của các đơn vị mạng lưới hiệu quả, hoạt động tuân thủ quy định của pháp luật.

Việc rà soát lại toàn bộ các đơn vị mạng lưới trong toàn hệ thống của TCTD và kiện toàn hệ thống này được coi là một nội dung quan trọng trong Phương án cơ cấu lại TCTD trong giai đoạn 2013-2015.

Trên cơ sở rà soát lại toàn bộ các đơn vị mạng lưới, TCTD có trách nhiệm chủ động xây dựng Kế hoạch sắp xếp, cơ cấu lại hoạt động của hệ thống mạng lưới, theo đó những đơn vị mạng lưới hoạt động có hiệu quả thì tiếp tục được hoạt động và kiện toàn, khắc phục những mặt được TCTD đánh giá là còn hạn chế, yếu kém. Đối với những đơn vị hoạt động không hiệu quả (kinh doanh thua lỗ, không an toàn, vi phạm quy định của pháp luật), TCTD phải có kế hoạch khắc phục, hoặc đóng cửa, hoặc chuyển giao về đơn vị đầu mối khác.

Trên cơ sở thực hiện các nội dung nêu trên, TCTD xây dựng Kế hoạch sắp xếp lại hệ thống mạng lưới (được coi là một cấu phần của Phương án cơ cấu lại TCTD theo Đề án ban hành kèm theo Quyết định số 254/QĐ-TTg ngày 01/3/2012) gửi NHNN chi nhánh nơi TCTD đặt trụ sở chính và NHNN (Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng) chậm nhất ngày 30/4/2013.

Học kế toán tổng hợp thực hành Tại thủ đức Cùng ngày, Thống đốc NHNN đã ban hành văn bản số 2537/NHNN-TTGSNH yêu cầu NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với hệ thống các đơn vị mạng lưới của các TCTD trên địa bàn.

Đối với NHNN chi nhánh nơi TCTD đặt đơn vị mạng lưới: Qua công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, khảo sát, chậm nhất ngày 30/4/2013 có văn bản gửi NHNN chi nhánh nơi TCTD đặt trụ sở chính, trong đó: cung cấp thông tin, đánh giá về tình hình tổ chức, hoạt động của các đơn vị mạng lưới trên địa bàn; đề xuất kiến nghị (nếu có); giải pháp kiện toàn, sắp xếp lại các đơn vị mạng lưới của TCTD trên địa bàn.

dịch vụ kế toán thuế trọn gói giá rẻ tại tphcm Đối với NHNN chi nhánh nơi TCTD đặt trụ sở chính tiến hành theo dõi, đôn đốc TCTD có trụ sở chính trên địa bàn xây dựng Kế hoạch sắp xếp lại mạng lưới hoạt động theo chỉ đạo của NHNN tại văn bản số 2536/NHNN-TTGSNH nêu trên.

Trên cơ sở công tác thanh tra, giám sát, khảo sát các đơn vị mạng lưới của TCTD trên địa bàn và qua tổng hợp thông tin từ các NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố nơi TCTD đặt đơn vị mạng lưới, đánh giá Kế hoạch sắp xếp lại mạng lưới hoạt động của TCTD và đề xuất biện pháp kiện toàn, sắp xếp lại các đơn vị mạng lưới của TCTD có trụ sở chính trên địa bàn. Đồng thời, có văn bản báo cáo NHNN (Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng) các nội dung triển khai trên chậm nhất ngày 15/5/2013.
dịch vụ hóa đơn điện tử tại bắc ninh Theo tapchitaichinh
[Read More...]


Chật vật tăng vốn của ngân hàng nhỏ



Không ít nhà băng nhỏ tiếp tục lên kế hoạch tăng vốn điều lệ trong năm 2013, cho dù trước đó phải hoãn nhiều lần. Trong bối cảnh TTCK tiếp tục khó khăn, việc tăng vốn của các ngân hàng nhỏ là không dễ.

Nỗ lực tăng vốn

VietA Bank cho biết, Ngân hàng sẽ trình cổ đông thông qua kế hoạch tăng vốn điều lệ từ hơn 3.000 tỷ đồng lên 3.500 tỷ đồng tại kỳ ĐHCĐ diễn ra vào 26/4 tới. Theo đó, VietA Bank sẽ phát hành trên 11 triệu cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu, đối tác chiến lược; phần còn lại sẽ được phát hành cho cổ đông hiện hữu từ lợi nhuận sau thuế để chia cổ tức trên 12,3 triệu cổ phiếu, phát hành cho cổ đông hiện hữu từ thặng dư vốn cổ phần trên 10,5 triệu cổ phiếu, cộng với hơn 6 triệu cổ phiếu từ quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ. Giá phát hành bằng với mệnh giá 10.000 đồng/cổ phiếu. Mục đích của việc tăng vốn lần này là để đáp ứng các yêu cầu kinh doanh, nâng cao quy mô và chất lượng tài sản sinh lời, tăng năng lực cạnh tranh. Thời gian thực hiện dự kiến vào quý III hoặc quý IV năm nay. Tuy nhiên, HĐQT VietA Bank cho biết, nếu hết năm 2013, kế hoạch này chưa được thực hiện, VietABank sẽ xin gia hạn thời gian thực hiện tăng vốn điều lệ. Trên thực tế, kế hoạch tăng vốn này cũng đã được VietA Bank xây dựng từ năm trước, song do tình hình thị trường khó khăn nên đã được Ngân hàng hoãn lại.

Trong năm 2013, Southern Bank cũng lên kế hoạch nâng vốn điều lệ từ mức 4.000 tỷ đồng lên 4.500 tỷ đồng. Nguồn vốn tăng thêm được Southern Bank dành cho cổ đông hiện hữu, với giá phát hành 10.000 đồng/cổ phiếu. Ngoài ra, Southern Bank trình cổ đông kế hoạch niêm yết cổ phiếu trong năm 2013. Kế hoạch này cũng được HĐQT Southern Bank trình cổ đông và được thông qua trong kỳ ĐHCĐ năm ngoái, nhưng chưa thực hiện được do TTCK suy giảm.

Hiện Southern Bank đã có cổ đông chiến lược nước ngoài là Tập đoàn tài chính UOB của Singapore. Tuy nhiên, tỷ lệ nắm giữ cổ phần tại Southern Bank của UOB đã đạt giới hạn 20% theo quy định. Vì thế, trong kế hoạch tăng vốn năm nay, Southern Bank không thể kỳ vọng vào đối tác chiến lược nước ngoài mà chỉ phát hành cho cổ đông hiện hữu, giá bằng mệnh giá.

ĐHCĐ NamA Bank diễn ra ngày 29/3, HĐQT Ngân hàng tiếp tục trình cổ đông phương án tăng vốn điều lệ trong năm 2013. Theo bà Nguyễn Thị Xuân Loan, Chủ tịch HĐQT NamA Bank, năm nay, Ngân hàng tiếp tục hoàn thiện cơ cấu tổ chức phù hợp với quy mô, sự phát triển của NamA Bank trong giai đoạn mới, tăng năng lực tài chính thông qua việc tăng vốn điều lệ từ 3.000 tỷ đồng lên 3.700 - 4.000 tỷ đồng. Cổ đông hiện hữu của NamA Bank muốn HĐQT Ngân hàng thu hút thêm vốn từ nhà đầu tư chiến lược nước ngoài. Tuy nhiên, trước bối cảnh TTCK chưa thể hồi phục và giá cổ phiếu ngân hàng vẫn xu hướng lình xình khiến cổ đông chiến lược của các ngân hàng mất hào hứng với việc “rót” thêm tiền mua cổ phiếu, dù giá được ưu đãi.

Trên thực tế, không phải đến năm 2013, các nhà băng nhỏ mới lên kế hoạch phát hành cổ phiếu tăng vốn, mà 2 năm trước kế hoạch này đã được xây dựng. Tuy nhiên, khi TTCK sụt giảm, nhiều cổ phiếu xuống dưới mệnh giá, thì việc phát hành cổ phiếu với giá bằng mệnh giá không hẳn hấp dẫn được cổ đông.

Học kế toán tổng hợp thực hành Tại long biên … và áp lực lợi nhuận

Tăng vốn đồng nghĩa với việc các ngân hàng sẽ phải đứng trước áp lực tăng trưởng lợi nhuận so với năm trước. Với các quy định khắt khe về việc mở rộng mạng lưới hoạt động hiện nay của NHNN cũng như việc tín dụng tiếp tục khó tăng trưởng thì tăng trưởng lợi nhuận đây là áp lực không nhỏ với lãnh đạo các ngân hàng.

Thực tế, lợi nhuận của các ngân hàng nhỏ đã sụt giảm mạnh trong 2 năm gần đây khi nợ xấu tăng cao. Vì thế, theo đánh giá của một cố vấn cấp cao ngành ngân hàng, nếu sử dụng đồng vốn tăng thêm không chặt chẽ và thiếu sự giám sát, ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng nợ xấu tăng và khó tránh việc ăn thâm vào vốn điều lệ. Chẳng hạn, tại Southern Bank, năm qua, ngân hàng này đã tăng vốn điều lệ từ mức hơn 3.200 tỷ đồng lên 4.000 tỷ đồng, nhưng kết quả lợi nhuận cũng chỉ đạt 20% kế hoạch lợi nhuận đưa ra, với 121 tỷ đồng.

dịch vụ kế toán thuế trọn gói giá rẻ tại bắc ninh Với VietA Bank, năm 2012, ngân hàng này đạt 211,4 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế; cổ tức dự kiến chia 4%. Với kế hoạch tăng vốn điều lệ thêm 500 tỷ đồng, Ngân hàng đưa ra mức lợi nhuận kế hoạch 311 tỷ đồng; cổ tức dự kiến 6%.

Nam A Bank năm 2012 đạt gần 241,5 tỷ đồng lợi nhuận (trên chỉ tiêu 600 tỷ đồng), trong đó, đóng góp chủ yếu vào lợi nhuận đến từ tín dụng. Với mục tiêu lợi nhuận trước thuế đưa ra cho năm 2013 của NamA Bank ở mức 400 tỷ đồng, không ít cổ đông của Ngân hàng đã tỏ ra lo ngại, liệu có thực hiện được hay tiếp tục điều chỉnh như năm qua.
dịch vụ hóa đơn điện tử tại bắc ninh Theo vnf

[Read More...]


TRUNG TÂM KẾ TOÁN HÀ NỘI

Return to top of page